Showing posts with label Bản văn. Show all posts
Showing posts with label Bản văn. Show all posts

18 September 2018

BẢN VĂN ĐỆ TAM TỔ MƯỜNG



GIỚI THIỆU BẢN VĂN
ĐỆ TAM - TỔ MƯỜNG
Tư liệu / Đền Bồng Lai Cao Phong - Hòa Bình

Nhang nhất triện lòng thành dâng tiến
Cung thỉnh mời tiên chúa Đệ Tam
Phương danh lưu thuở Hồng Bàng
Thuyền Lâm Diệu Nghĩa sơn trang tổ Mường
Phong Sơn động đường đường hách trạc
Cảnh Long Đầu họa tạc danh linh
Hồng Bàng từ thuở khai sinh
Rừng thiêng núi thẳm những tinh cùng tà
 Việt nhân thời nan qua khổ ải
Thương dân phàm xin cải hiện thân
Ngọc Hoàng mến cảm lòng nhân
Chiếu phê chấp nguyện phong vân đùng đùng
Lại sai thêm tùy tùng bộ tướng
Lĩnh lệnh bài “ngâm Phượng chi thi”
Theo chân “Mạn trược thanh y”
Giáng vào các họ hộ trì chủ nương
Chọn cảnh vắng xứ mường heo hút
Dải long trường vun vút ngọn xanh
Trong hang nhũ tím buông mành
Ngoài thời long nhẫn nước xanh đêm ngày
Cảnh đặt để vui vầy tùng trúc
Chẳng phải trời ai đúc mà nên
Nam thiên sấm động vang rền
“Tùy xa vân phủng thượng lên nham đầu”
Phép tàng tu “huyễn màu chí diệu”
Luyện phù thời chuyển chú ghê thay
Lão quân bí pháp ra tay
Tác uy thảo mộc lá cây luyện bài
Trì chú hết trong đài ngoài động
Lá cây rừng buông thõng lả lơi
Quỷ tà tán vía bạt hơi
Còn đâu là bóng biết đâu là hình
Lũ yêu tinh hiện mình quy phục
Phép bà ra mỗi lúc một ghê
Mường dân bách chúng sơn khê
Lên nương lên rẫy đi về hôm mai
Bà cho biết thần oai thánh lực
Phép tàng hình mắt tục khôn hay
Trêu người bà mơi ra tay
Trêu cho hồn vía đêm ngày thất kinh
Đang yên ắng thình lình tiếng nhại
Ngó bên này lại ngoái bên kia
Ô hay sự lạ chưa kìa
Bên này không bóng bên kia vắng người
Chợt nghe thấy tiếng cười khanh khách
Tưởng đâu là tiếng vách tiếng hang
Ai hay cô dí cô nàng
Cô vần trước mặt cô quàng đằng sau
Cô vuốt tóc xoa đầu sờ má
Cô sợi thừng cành lá bẻ bươi
Râm ran chẳng ngớt nói cười
Tiếng thời giáp mặt mà người nơi nao
Lại bất chợt ào ào như gió
Rủ về miền núi đỏ thung thâm
Líu lô ca hát bổng trầm
Tiếng Mường tiếng Mán nhịp cầm nhịp xênh
Lúc ngắm cảnh chênh vênh sườn núi
Khi hiện người hái củi đào măng
Thần thông khê hạ sơn đăng
Thảnh thơi hang động dung dăng quán lầu
Tiếng dậy khắp các châu các bản
Chúng sơn dân Mường Mán bảo nhau
Rừng trong núi thẳm thung sâu
Có bà thần nữ phép mầu tối linh
Trị khắp hết tà tinh quỷ dữ
Muốn các mường các xứ bình an
Thời vào cung kính thần ngàn
Xin bà bảo hộ cho an tháng ngày
Kể từ đó ra tay chiêu khán
Trấn quỷ tà trừ nạn cho dân
Thấy ai “Đạo – Cốt cư trần”
Bà đem truyền dạy chú thần bùa thiêng
Phép tàng tu lưu truyền từ đấy
Quyết mo phù đã dậy thế gian
Lên non đi suối về ngàn
Tuyên danh thần nữ được an mọi bề
Hết lệnh trời cải về tiên tính
Lưu nhân gian đức chính hình dong
Lịch triều truy tặng sắc phong
Thuyền Lâm Diệu Nghĩa vốn dòng sơn trang
Chữ khấn rằng Đệ Tam Mường tổ
Xưa giáng trần tế độ sinh nhân
Sắc cho Mường Mán sơn dân
Phụng thờ nhang khói mông ân đời đời
Ai hữu sự đem lời tấu đối
Sắm cau trầu sám hối chúa tiên
Hữu cầu tất ứng tự nhiên
Đỉnh khai cửu chuyển khe liền núi thông
Hoặc dù ai kiều đồng bắc ghế
Thiết đàn tràng nghi lễ thành tâm
Cậy nhờ đến phép sơn lâm
Khẩn cầu tiên chúa giáng lâm tức thời
Đã thỉnh cầu kêu mời xuất động
Đem “phi phù ấn phóng” càn khôn
Ầm ầm kèn giục trống dồn
Tứ phương khói tỏa, bát môn vang lừng
Khoác thanh y ngự lưng bạch tượng
Các thị hầu mãnh tướng theo sau
Bà truyền cấp cấp cho mau
Phù đồng thiếp tính bảo nhau chớ phiền
Thọ trường niên được yên gia sự
Phúc mãn đường tôn tử thông hanh
Nay con một dạ kính thành
Sơn trang dạo khúc cầm thanh rộn ràng
Xin chúa bà gia ban phúc lộc
Độ muôn người bội gốc sai hoa
Trong khi xênh phách cầm ca
Sai ngôn thất ý xin bà khai ân.

Diễn Đàn Hát Văn Việt Nam : www.hatvan.vn
Phụng Đăng

02 July 2012

Bản văn : Chầu Năm Suối Lân

ĐỆ NGŨ THÁNH CHẦU SUỐI LÂN TIÊN CHÚA VĂN

Non xứ Lạng sơn lâm hùng vĩ
Đền Suối Lân cảnh trí phong quang
Nhang thơm tấu đến tòa vàng
Chầu Năm Sông Hóa đáo đàn chứng đây
Nhang thành kính tỏ bày một nén
Khói ngạt ngào thấu đến cửu thiên
Chính tòa Sông Hóa Chúa Tiên
Thánh Chầu đệ ngũ giáng đền chứng tâm
Đất Sơn Lâm quyền Chầu cai quản
Khắp thượng ngàn Xứ Lạng Tam Thanh
Suối Lân, Sông Hóa quyền hành
Thổ nùng thổ mán phục tình phải theo
Non đá mèo suối khe vực thẳm
Núi đá vôi rừng cấm vào ra
Nhờ ơn Đệ Ngũ Thánh Bà
Ơn bà bảo hộ gần xa an lòng
Khắp làng bản người nùng người thổ

Độ bốn mùa mưa gió hanh thông
Dạy dân phát rẫy vun trồng
Nếp nương khoai sắn thơm lừng gần xa
Dạy dân bản hái hoa làm thuốc
Gỗ cây rừng, thảo dược kỳ tâm
Ngược xuôi mộ đức mến ân
Chầu Năm sông Hóa Suối Lân thượng ngàn
Ngọc như ý soi đàng dẫn lối
Thuyền từ bi đưa khỏi sông mê
Suối Lân cảnh vật bốn bề
Thuyền từ Sông Hóa chèo về Lạng Sơn
Qua Kiệt Cùng rập rờn sóng nước
Lên Đồng Đăng biên giới Bắc Nam
Có phen chính ngự sơn trang

Bài sai thập nhị tiên nàng tới nơi
Chuông ba tiếng một hồi trống giục
Bộ sơn thần chầu phục đôi bên
Bách hoa chư vị nàng tiên
Hoa lan hoa huệ hoa sen hoa hồng
Hoa sim tím ngập ngừng e lệ
Hoa mận đào hoa quế hoa ban
Trăm hoa trăm sắc vẻ vang

Thanh tân yểu điệu dịu dàng tốt thay
Kim chúng đẳng nhớ ngày kị tiệc
Đôi mươi tròn ngũ nguyệt tháng năm
Tâm thành tấu khúc ca văn
Nguyện xin tiên chúa lai lâm độ trì

Tâm kính lễ tâu quỳ trước án
Nguyện xin Chầu lai giáng từ trung
Ban ân tiếp lộc cho đồng
Khuông phù đệ tử thọ trường

01 July 2012

Điển cố trong chầu văn



Hai chữ "Hoàng lương" là chỉ hạt kê. Ý của câu thành ngữ này chỉ cuộc đời như giấc mộng, không có thực. Tương tự như mộng kê vàng, mộng Lư sinh, ....

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Chẩm trung ký" của Thẩm Ký Tế triều nhà Đường.

Truyện rằng, ngày xưa có một chàng thư sinh nghèo họ Lư. Một hôm, chàng vào nghỉ trong một nhà trọ ở Hàm Đan thì tình cờ gặp đạo sĩ Lã Ông, chàng không ngớt lời than phiền với đạo sĩ về cuộc đời nghèo khổ của mình. Đạo sĩ Lã Ông nghe vậy bèn rút một chiếc gối từ ống tay áo ra nói với thư sinh rằng: "Anh hãy gối đầu lên chiếc gối này thì mọi việc sẽ được như ý cả ". Bấy giờ, người chủ quán đang bắc nồi cháo kê, còn thư sinh do vất vả đường trường, đã nằm gối đầu lên chiếc gối của Lã Ông ngủ thiếp đi.

Thư sinh ngủ được một lúc thì nằm mơ mình cưới được một cô vợ họ Thôi rất xinh đẹp. Vợ chàng tuy là con gái cưng của một gia đình giàu có, nhưng lại chăm chỉ và khéo tay, nàng đã giúp chồng thuận lợi trên bước đường công danh và có với nhau mấy mụn con. Về sau các con khôn lớn, ai nấy đều có cuộc sống khá giả, ấm cúng, thư sinh lại có thêm cháu nội cháu ngoại, chàng sống cuộc đời nhàn nhã trong gia đình đến hơn 80 tuổi rồi qua đời.
Khi chàng thư sinh tỉnh giấc, thấy mình vẫn đang ở trong căn nhà trọ nhỏ hẹp, sự vinh hoa phú quý vừa rồi chẳng qua chỉ là một giấc mộng. Nồi cháo kê của chủ quán bắc trên bếp vẫn còn chưa chín. Lư Sinh bàng hoàng tự hỏi: "Há việc đó là huyễn mộng ư ?" Lã ông mới nói: "Việc đời thì cũng như huyễn mộng đó mà.


HOÀNG LƯƠNG MỘNG
Sáng tác: Phúc Yên

Hoàng lương nhất mộng
Ví cuộc đời tựa giống giấc mơ
Lúc thanh nhàn ngẫm chuyện xa xưa
Chàng hàn sĩ họ Lư thủa nọ
Gặp một buổi dừng chân quán trọ
Duyên tình cờ gặp đạo sĩ Lã Ông
Chàng Lư than cuộc sống khổ cùng
Ngẫm áo vải thời lòng chán nản
Lã đạo sĩ bảo chàng chớ nản
Đưa cho chàng chiếc gối trong tay
Ngỏ lời rằng phú quý thỏa hay
Một giấc mộng thời tày ước nguyện
Chàng nhận gối mắt nhìn quyến luyến
Lão chủ nhà đương nấu nồi kê
Mệt vì lòng đánh giấc mệt mê
Thời tỉnh lại bước về chốn cũ
Qua ngõ hạnh vườn đào cổ thụ
Thấy một nàng thiếu nữ họ Thôi
Ấy duyên xe cũng tại ông trời
Duyên cá nước kết đôi hạnh phúc
Tình chồng vợ trong ngoài nhất mực
Nàng đảm đang giúp sức tài trai
Đợi đến kì tỏ sức tỏ tài
Khoa ứng thí Lư thời nhất bảng
Đường sự nghiệp càng thêm xán lạn
Cảnh thanh nhàn lan quế hây hây
Cháu cùng con hiếu thảo sum vầy
Cảnh phú quý tràn đầy lạc thú
Có chữ phúc mãn đường chính chủ
Chữ thọ thêm lộc phủ sắc xuân
Cảnh vinh hoa đến ngoại bát tuần
Duyên đã mãn cõi trần từ tạ
Cháu cùng con lệ tuôn xối xả
Lo cho người yên mả yên mồ
Chợt giật mình bừng tỉnh giấc mơ
Hoàng lương mộng nồi kê vàng chửa chín
Lư bỗng hỏi hay chăng mộng huyễn
Ô cuộc đời cũng giống chuyện chiêm bao
Mơ màng phú quý làm sao?

bài viết : Phúc yên

31 May 2011

Văn Quan Đệ Ngũ ( Trình bày : Xuân Đậu )



Quan Đệ Ngũ



Đệ tử con khấu đầu cung thủ
Tiến văn chầu đệ ngũ tuần tranh
Uy gia lẫm liệt tunghoành
Trừ tà sát quỷ lên danh tướng tài



Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn
Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu
Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ 
Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh
Bao phen đắp luỹ xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng
Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,

Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang
Tài cung kiếm sánh cùng võ tử 
Đức kinh luân ví tựa Trương Tô
Phong lưu mã thượng giang hồ
Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông
Chí đã quyết ngaòi vòng cương toả
Hay đâu là duyên nợ ba sinh
Buồng xuân thiếu bạn chung tình
Thoả lòng tráng sĩ tài anh phỉ nguyền
Thề non nước nên duyên kì ngộ
Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên
Tin đâu khẩn cấp ban truyền 
Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh
Có ngờ đâu đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.
Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng 
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân
Trước cung điện, triều đình tra xét,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuôm chàm xanh
Tấm thân đành nhục vinh lẽ thường
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ
Hỏi trăng già có tỏ cho ai
Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn
Kiệt cùng hiu hắt trăng non
SôngCùng trong đục nước tuôn đôi dòng
Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời
Rừng hoa cỏ thương người đã khuất 
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa
Nỗi oan chuyển động đất trời
Dây oan kia biến thành đôi bạch xà


Đất Ninh Giang tìm nhà có phúc

Thử lòng người trong lúc lánh thân

Tháng hai vừa tiết trung tuần

thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên
Long xà kì dị thảo hiền
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà
Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó Khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây
Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi
Hai ông bà mắc tội cửa công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này
Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương rắn thần tựa thể thương con
Khấu đầu tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng
Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông
Long xà thoát xuống thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan
Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi
những phường bán nước hại nòi
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha
Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa
Lẽ thường tội báo oan gia
hại nhân nhân hại sự đà không sai
Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng, 
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
lệnh truyền dân xã lập đèn bên sông
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương, 
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Bao phen đắp luỹ xây thành,
Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.


Bản văn :  HUY ( nam định ) ST 
Photo : Mantico 
Hát văn : Quan Lớn Đệ Ngũ ( Trình bày : Xuân Đậu )



11 January 2011

Quan Lớn Điều Thất

Quan Lớn Điều Thất Đào Tiên
-------------------------------------------------------------------------------------
bản tích : Dương minh đức
bản văn : Soạn giả phúc yên
mantico's Blog

Quan Lớn Điều Thất Đào Tiên. Ông là con trai thứ bảy của Vua Cha Bát Hải Động Đình, luôn luôn kề cận túc trực bên vua cha. Ông là vị văn quan được vua cha giao cho biên sổ, coi giữ kho tàng kinh thư nơi Thuỷ Cung. Quan lớn luôn cứu giúp người trần gian, hễ ai là người sống hiếu thuận đều được quan biên chép sổ sinh được thọ trường. Ông cũng không giáng trần.

Quan Điều Thất thường không ra ngự đồng vì ông chỉ làm việc cận bên vua cha, nhưng khi hầu về hàng quan lớn, sau khi thỉnh Ngũ Vị Tôn Ông, đều phải thỉnh quan về tráng bóng. Trong số ít trường hợp ông ngự về đồng, ông thường mặc áo đỏ điều thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương và khai quang.

Tuy không giáng trần, nhưng ông lại linh ứng giúp dân nên được nhân dân lập đền thờ tại tỉnh Thái Bình (gần Đền Đồng Bằng thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, vì ông luôn kề cận bên vua cha) là Đền Quan Lớn Điều Thất. Khi thỉnh ông ngự đồng, văn thường hát:


Bản văn : 
Trấn Nam thiên hải hà trung tú
Nổi dấu thiêng trong phủ Thái Ninh
Con vua Thuỷ Quốc Động Đình
Đào tiên Điều Thất anh linh khác thường
Bóng ông lớn anh linh tế độ
Tài lược thao văn vũ ai qua
Đêm ngày chầu trực vua cha
Sắc phong làm chúa quốc gia cầm quyền
Trước sân rồng ngôi cao lồ lộ
Vâng lệnh truyền tế độ muôn dân
Uy ra lẫm liệt thánh thần
Giang hà ngoại hải đội ân phục lòng
Bóng ông lớn thung dung khí tượng
Vẻ râu rồng mắt phượng ai đương
Thông minh chính trực uy cường
Trừ tà sát quỷ phép càng thần thông
Giá ngự đồng những người thanh quý
Tuyên văn chầu giáng khí anh linh
Có phen biến tướng hiện hình
Hô phong hoán vũ phép kinh ai tày
Có phen ngự Phủ Giày Thiên Bản
Vào quỳ tâu chính quán mẫu vương
Có phen chơi cảnh Đồi Ngang
Chầu đền thánh Mẫu Thượng Ngàn anh linh
Lên Thiên Đình chầu vua Thượng Đế
Lại về chầu Thuỷ Tế Long Cung
Thuyền rồng chèo quế buồm lan
Khi chơi nước nhược khi sang ngũ hồ
Có phen dạo kinh đô thành thị
Ngự lầu hồng phủ tía thảnh thơi
Có phen dạo khắp mọi nơi
Tiêu dao Tây Trúc thảnh thơi Phật tiền
Có phen ngự Tản Viên Tam Đảo
Hội quần tiên đàm đạo xướng ca
Cung đàn thánh thót thánh tha
Rượu tiên thơ thánh thần cơ đua tài
Quan về giáng phúc trừ tai
Khuông phù đệ tử xuân lai thọ trường.
--------------------------------------------------------------------------------------------
( PM : Các bạn có hình ảnh các giá đồng  Quan lớn điều thất  / và tư liệu xin vui lòng chia sẻ cùng BLOG nhé / Chân thành cảm ơn  )

30 November 2010

Bản văn : NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ




Bản văn được sử dụng hát thờ nhân ngày đản tiệc Vua Cha Ngọc Hoàng ( mồng chín tháng giêng)

NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ VĂN

Bỉ:

Thần kim ngưỡng khải tấu thiên tôn
Tọa thượng dương dương nghiễm nhược tồn
Nguyện thỉnh pháp âm thi huệ lực
Tùy cơ phó cảm nạp trần ngôn

Miễu:

Tiết xuân thiên tam dương khai thái
Mở vận lành vạn đại hưng long
Linh Tiêu Kim Khuyết Vân Cung
Tâm hương thấu đến cửu trùng thiên thai
Thuở đất trời âm dương hòa hợp
Kiến tạo nên vũ trụ càn khôn
Long ngai chín bệ kim môn
Hoàng Thiên Thượng Đế Chí Tôn cầm quyền
Khắp tam thiên đại thiên thế giới
Vua Ngọc Hoàng quyền đại tối linh
Thổng:
Ngôi cao chính ngự thiên đình
Ngai vàng thống chế quần sinh muôn loài
Hằng giá ngự đan đài tử phủ
Khúc nghê thường y vũ xướng ca
Đàn cầm thánh thót thánh tha
Tiếng dâng ngọc tửu hoàng hoa đượm mùi
Vườn thượng uyển thảnh thơi thánh giá
Điện Linh Tiêu thong thả giáng lâm

Dọc:

Đào viên mở hội long vân
Bách tiên văn vũ quần thần âu ca
Cửa thiềm cung bách hoa tiên tử
Đứng đôi bên ngọc nữ cung phi
Rồng bay phượng múa nghê quỳ
Trăm hoa đua sắc tức thì tỏa hương
Nhân khánh hạ tam dương cửu nhật
Thiết đàn tràng kính ngưỡng thiên công
Hãm:
Thần đăng ngũ quả tiến dâng
Kính xin soi xét lỗi lầm trần gian
Ban phúc lộc nhân khang vật thịnh
Khắp bốn mùa cát khánh tường quang
Dồn:
Phong điều vũ thuận an khang
Mãn thiên hỷ khí xuân quang lại về
Thiên tăng tuế đề huề trường thọ
Chiếu nhân gian trăm họ giai xuân
Ơn trên bảo quốc hộ dân
Khuông phù đệ tử thiên xuân thọ trường



Chú thích:
1.     Tiết xuân thiên :tiết trời xuân ý nói trong thời điểm mùa xuân
2.     Tam dương khai thái:tam dương chỉ cho tháng giêng đầu năm mới, theo nguyên lý âm dương tháng mười là tháng “lục âm”, khí âm đã cực thịnh nên bắt đầu từ tháng mười một thì khí dương bắt đầu sinh dần, Tháng một (tháng 11 âm lịch)  là nhất dương sinh, tháng chạp (tháng 12 âm lịch) là nhị dương sinh, tháng giêng (tháng 1 âm lịch) là tam dương sinh. Theo kinh dịch quẻ thái có ba dương ở dưới nên coi tháng giêng là tháng mở đầu cho vận thái tức vận tốt, vận lành
3.     Vạn đại hưng long: nhiều điều tốt lành, thịnh vượng
4.     Linh Tiêu Kim Quyết Vân Cung: tương truyền đó là nơi Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự gọi đầy đủ là Linh Tiêu Bảo Điện Kim Khuyết Vân Cung. Linh là linh thiêng, tiêu là khoảng trời không, bảo là quý, điện là nơi vua ở, Kim khuyết là cổng lớn bằng vàng, vân cung là cung điện trên mây. Ý nói nơi Ngọc Đế ngự trang hoàng rộng lớn , cung điện được  làm bằng các thứ quý báu, ở trên trời cao linh thiêng
5.     Tâm hương: hương thơm dâng cúng xuất phát từ sự thành tâm, tấm lòng thành kính
6.     Cửu trùng: người xưa cho rằng có chín tầng trời, tầng cao nhất thứ chín là nơi Ngọc Đế ngự
7.     Thiên Thai: tên ngọn núi ở phía Bắc huyện Thiên Thai, Tỉnh Triết Giang, Trung Quốc, đó là nơi có cảnh thú rất đẹp nên thiên thai được hiểu là cõi tiên, cảnh tiên
8.     Vũ trụ càn khôn: càn là dương, khôn là âm, càn còn có nghĩa là trời, khôn có nghĩa là đất. Đạo âm dương sinh hóa bảo tồn trời đất vũ trụ
9.     Long ngai chín bệ kim môn:long ngai là ghế có chạm hình rồng biểu tượng cho ngôi vị của đức vua, chín bệ là chín bậc thềm trong đó số chín có ý nghĩa là con số lớn nhất trong các số, biểu hiện cho nghĩa cực đại, cực cao, có ý chỉ ngôi vua hoặc gọi nhà vua với ý tôn kính, kim môn là cửa bằng vàng , chỉ nơi quyền quý cao sang
10. Hoàng Thiên Thượng Đế Chí Tôn : danh hiệu của Ngọc Đế - một vị vua tối cao trên trời
11. Tam thiên đại thiên thế giới, Cứ một ngàn thế giới hợp thành một tiểu thiên thế giới, cứ một ngàn tiểu thiên thế giới hợp thành một trung thiên thế giới, cứ một ngàn trung thiên thế giới hợp thành một đại thiên thế giới gọi chung là tam thiên đại thiên thế giới (1000x1000x1000)
12. Thiên đình : triều đình ở trên trời, nơi Ngọc Đế ngự trị
13. Quần sinh nghĩa là các loài có sự sống
14. Đan đài: đan là màu đỏ, cung điện đời xưa đều chuộng sắc đỏ, nên gọi cung điện nhà vua là đan đài
15. tử phủ: tử là màu tía, tử phủ còn gọi là phủ tía, dùng để chỉ cõi tiên
16. Khúc nghê thường y vũ :chỉ điệu múa ở cõi tiên. Theo tích vua Đường Minh Hoàng bên Trung Quốc nhân đêm trung thu được một đạo sĩ đưa lên chơi cung trăng, thấy các tiên nữ mặc xiêm màu cầu vồng lộng lẫy, múa hát duyên dáng, về või trần nhà vua mới phỏng theo điệu nhạc của các tiên nữ rồi sáng tác ra điệu múa nghê thường y vũ  
17. Ngọc tửu hoàng hoa: thứ rượu quý đựng trong bình ngọc, rót ra chén ngọc, hoàng hoa là hoa cúc
18. Vườn thượng uyển: là vườn hoa trong cung vua
19. Đào viên:vườn đào tiên
20. Hội long vân: hội rồng mây, ý nói ngày hội long trọng trên thiên cung ( trong bản văn là mở hội nhân khánh tiệc Ngọc Đế)
21. Bách tiên, văn vũ quần thần : chỉ các vị tiên trên trời, các quan văn, quan võ, là bầy tôi của Ngọc Đế
22. Âu ca: cùng nhau hát để ca ngợi
23. Thiềm cung: cung con cóc.Theo tích Hậu Nghệ xin được thuốc trường sinh của Tây Vương Mẫu.Vợ Hậu Nghệ là Hằng Nga lấy trộm thuốc đó rồi trốn lên mặt trăng, hóa thành con cóc.Vfi vậy thiềm cung dung để chỉ mặt trăng, nơi tiên giới
24. Bách hoa tiên tử: tương truyền mỗi loài hoa lại ứng với một vị tiên nữ, bách hoa là trăm loài hoa, ý chỉ nhiều vị tiên nữ
25. Ngọc nữ cung phi: các tiên nữ
26. Tam dương cửu nhật: tam dương là chỉ tháng giêng, cửu nhật là ngày mồng chín .Mồng chín tháng giêng là ngày đản tiệc Ngọc Hoàng Thượng Đế (ngày giáng sinh)
27. Đàn tràng: Chọn chỗ đất bằng phẳng đắp đất để cúng tế gọi là đàn , nhân việc gì mà tập trung đông người gọi là tràng. Đàn tràng ở đây  là tổ chức cúng lễ Ngọc Đế
28. Thiên công: ông trời ( Ngọc Đế)
29. Thần đăng: đèn thần, chỉ các ngọn đèn cúng trời
30. Ngũ quả: các loại quả dâng cúng ( thường dùng năm loại nên gọi là ngũ quả)
31. Phúc lộc: những điều tốt lành
32. Nhân khang vật thịnh: người và vật đều bình yên tốt lành
33. Cát khánh tường quang: ánh sáng tốt lành, những điều tốt đẹp đáng mừng
34. Phong điều vũ thuận an khang: mưa gió thuận hòa tốt đẹp
35. Mãn thiên hỷ khí: khí tốt đầy trời
36. Xuân quang: ánh sáng mùa xuân, chỉ sự tốt lành
37. Thiên tăng tuế: trời thêm tuổi
38.  Trăm họ giai xuân: giai nghĩa là đều, cùng.Xuân là biểu tượng của sự tốt đẹp,mọi nơi đều được yên vui tốt đẹp
-----------------------------------------------------------
Nguồn :   SOẠN GIẢ PHÚC YÊN
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa[2]. na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất bà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ, Ta Bà Ha.

Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng . Hàng Ông Hoàng gồm:

01- Ông Hoàng Cả ( Thượng Thiên )
02- Ông Hoàng Đôi Thượng Ngàn ( Người Nùng )
05- Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc
06- Ông Hoàng Tư
07- Ông Hoàng Năm
08- Ông Hoàng Bảy ( Bảo Hà )
09- Ông Hoàng Bát

Tứ phủ Thánh Cô

Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
3 - Cô Tư Ỷ La
7 - Cô Bảy Kim Giao
10 - Cô Mười mỏ ba
11 - Cô bé Thượng ngàn ( cô bé Đông Cuông /Cô Bé Suối Ngang ( Hữu lũng ) / Cô bé Đèo Kẻng ( Thất Khê ) / Cô Bé Tân An ( Lào cai ) / Cô bé Cây xanh ( Bắc Giang ) / Cô bé Nguyệt hồ ( Bắc Giang ) / Cô bé Minh Lương ( Tuyên Quang ) / Cô bé Cây xanh ( Tuyên Quang ) / cô bé Thác Bờ ( hòa Bình ) / Cô bé Thoải phủ

Bánh Xưa ( Hà Nội )

Bánh Xưa ( Hà Nội )
Cung cấp Bánh khảo - bánh in huế truyền thống / 0965111991