Showing posts with label Tâm linh. Show all posts
Showing posts with label Tâm linh. Show all posts

26 September 2018

TÌM HIỂU TANG LỄ CỦA NGƯỜI XƯA


TANG LỄ CỦA NGƯỜI XƯA



Ma chay

Đối với những trường hợp người gần chết, người thân có thể phán đoán biết trước thì việc đầu tiên là hỏi xem người gần chết có trăn trối những gì, những lời nhắn nhủ lúc này được gọi là di ngôn, hỏi người đó có tự đặt lấy tên thụy (hay còn gọi là tên hèm) tức là tên sau này để khấn khi cúng cơm nên còn được gọi là tên cúng cơm.Kế tiếp dùng nước ngũ vị hương lau sạch sẽ thân người, thay đổi quần áo tươm tất. Khi người đó tắt hơi rồi, lấy chiếc đũa để ngang hàm gọi là cài hàm để cho răng khỏi nghiến vào nhau , sau bỏ một vốc gạo và ba đồng tiền vào miệng, nhà giàu thì thường dùng ba miếng vàng sống, đây được gọi là ngậm hàm hoặc phạn hàm.

Trùng tang

Theo phong tục, ngày giờ người chết vừa tắt thở phải nhớ chính xác để đem cho thầy tự xem có bị rơi vào giờ trùng tang hoặc bị quỷ tinh ám ảnh hay không. Nếu gặp ngày giờ xấu thì phải nhờ thầy dùng bùa để tống xuất, lá bùa này được dán trên quan tài và cho vào những vỏ ốc chôn ở bốn phía ngôi mộ hoặc bỏ vào quan tài một cỗ bài tổ tôm, quyển lịch Tàu hay lịch ta, tàu lá gói để trấn áp ma quỷ, hoặc khi đem chôn thì có một phường tuồng đóng vai thiên thần đi trước đám tang múa thành những đạo bùa yểm để trừ tà ma ở dọc đường hoặc ở mộ huyệt (trường hợp này mộ huyệt phải đào tam cấp).

Hạ tịch

Đưa người vừa mất xuống chiếu trải dưới đất 1 chốc rồi đưa lên lại, lấy nghĩa người bởi đất sinh ra thì khi chết lại về với đất (nhân sinh ư thổ, diệc hoàn ư thổ) hoặc để lấy đủ âm dương cho người chết, hoặc hy vọng rằng việc này có thể hoàn sinh khí cho người đã mất.

Cáo phó

Cáo phó là thông báo về tang lễ thường được đặt trước cổng tang gia hoặc gửi đến từng người thân thích. Ngày nay có thể đăng cáo phó trên các phương tiện truyền thông hoặc gọi điện thoại báo tin. Trên cáo phó phải ghi rõ tên người chết, ngày sinh và mất, và chi tiết về tang lễ như thời gian địa điểm làm lễ nhập quan và di quan.

Khâm liệm và nhập quan

Khâm liệm là dùng vải để quấn người chết, thường thì người nhà dùng vải thường trắng (đối với gia đình khá giả dùng vải tơ lụa) may làm đại liệm, tiểu liệm. Sau khi liệm xong, những người thân đứng quanh quan tài, nâng người chết bằng 4 góc của tấm vải tạ quan và đặt vào quan tài gọi là nhập quan. Trên quan tài đặt 1 chén cơm úp (2 chén cơm úp thành 1), trên có cắm đôi đũa và quả trứng gà luộc gọi là cơm bông, xưa có tục cướp cơm bông để cho trẻ ăn để phòng bệnh, quan tài phải quay đầu ra ngoài.

Thiết linh sàng, linh tọa

Linh sàng là giường của linh hồn, thường được lập ở phía đông, có quây màn và để gối như lúc sống. Linh tọa là bàn thờ đặt trước linh cữu, giữa linh tọa đặt bài vị bằng nan tre ghi họ tên hoặc ảnh người chết, 2 bên có đèn nến, trước có bát nhang, rượu và mâm ngũ quả.

Tang phục
Tục lệ xưa sau khi chết 4 ngày thì con cháu mới mặc đồ tang gọi là lễ thành phục. Tang phục được quy định như sau:

Con trai: đội mũ rơm quấn bẹ chuối, áo sô gai, cầm gậy (cha mất thì gậy tre, mẹ mất thì gậy vông vì thân tre tròn biểu tượng dương (cha); cành gỗ vông đẽo được thành hình vuông, biểu tượng âm (mẹ)).

Con dâu, con gái: áo sô gai, thắt lưng bện bằng bẹ chuối, áo xổ gấu hoặc không (tùy theo cha còn hay mẹ còn, con gái còn ở nhà hay đã xuất giá), đầu chít khăn tang.

Cháu nội: đội mũ mấn, khăn trắng, mặc áo thụng trắng.

Con rể, anh em trai: mặc áo thụng trắng.
Chị em gái: quấn vặn khăn trắng với tóc.
Ngoài ra, theo Quốc triều Hình luật có quy định cách thức mặc đồ tang và thời gian để tang (Hoàng Việt luật lệ về sau cũng không thay đổi), như sau:

Năm hạng áo tang Hình thức

Trảm thôi (đại tang) Tang 3 năm (27 tháng), áo vải sô rất xấu, không khâu gấu.
Tư thôi (cơ niên) Tang 1 năm có chống gậy, 1 năm không chống gậy, 5 tháng, 3 tháng; áo may vải sô gai có khâu gấu.
Đại công Tang 9 tháng, áo may vải to sợi.
Tiểu công Tang 5 tháng, áo may vải to sợi.
Ty ma Tang 3 tháng.
Một số thời hạn để tang đối với những
người có quan hệ gần
Quan hệ Thời hạn để tang
Cố ông/bà Tư thôi, 3 tháng
Cụ ông/bà Tư thôi, 5 tháng
Ông, bà Tư thôi, không phải chống gậy thì 1 năm
Cha, mẹ Trảm thôi, 3 năm
Chú, bác, thím Tang 1 năm
Cô ruột Cô còn ở nhà: tang 1 năm; lấy chồng: tang 9 tháng
Anh em ruột Tang 1 năm
Chị em dâu Tang 9 tháng
Anh em chú bác Tang 9 tháng
Chị em ruột Còn ở nhà: tang 1 năm; lấy chồng: tang 9 tháng
Chị em chú bác Ở nhà: tang 9 tháng; lấy chồng: tang 5 tháng
Con trai trưởng [19]
Con dâu trưởng Tang 1 năm
Con trai thứ Tang 1 năm
Con dâu thứ Tang 9 tháng
Quốc triều Hình luật không quy định việc để tang đối với bên ngoại và một số mối quan hệ khác, tuy nhiên người dân vẫn dựa theo Thọ Mai gia lễ để chịu tang, cụ thể một số trường hợp sau:

Quan hệ  và thời hạn để tang

Cháu ngoại Ông bà ngoại để tang 3 tháng; cháu dâu, cháu gái đã có chồng: không để tang
Cậu, dì (anh chị em ruột với mẹ) Tang 5 tháng
Mợ (vợ cậu), dượng (chồng dì) Không để tang
Cháu (gọi người để tang bằng cậu) Cậu để tang 5 tháng
Cha mẹ vợ: tang 1 năm, ngoài ra con rể không phải để tang một người nào khác bên vợ
Chồng: trảm thôi, 3 năm
Vợ: tang 1 năm
Vợ kế (nếu có con): tang 9 tháng; không có con: tang 5 tháng
Con rể Tang 3 tháng
Phúng điếu
Phúng điếu là sự thăm hỏi, giúp đỡ bằng hình thức tiền bạc, nhang đèn hoặc hoa quả, liễn, văn điếu... Theo tục lệ thì khi chưa mặc tang phục thì không được tiếp khách đến phúng điếu. Khi khách phúng điếu vái lạy người chết thì tang gia phải lạy trả lễ một nửa số vái. Ngày nay có một số gia đình không nhận tiền phúng điếu, việc này được ghi rõ trên cáo phó.

Thổi kèn giải

Trong những ngày còn quan tài trong nhà, gia chủ thường mời những ban nhạc đến thổi kèn, sáo, đánh đàn, trống. (gọi là nhạc hiếu). Ngày nay, có thêm những ban kèn tây, đàn guitar, đàn ca tài tử cải lương, hoặc mời cả ban nhạc người chuyển giới đến hát.

Di quan

Chuyển quan tài (hòm) từ nơi khâm liệm đến nơi chôn cất, hay từ nơi khâm liệm đến một nơi khác mà chưa chôn, để lại hôm sau mới đem chôn cũng được gọi là di quan.

Viếng mộ đắp mộ

Sau khi người chết được 3 ngày, gia chủ làm lễ viếng mộ. Ở Việt Nam còn có tục mở cửa mả

Tuần chung thất hay còn gọi là tứ cửu tức (49 ngày)

Trong thời gian tang lễ, gia chủ cúng cơm cho người chết. Khi người chết được bao nhiêu tuần, gia chủ làm lễ thất cho đến khi được tuần thứ 7 thì làm lễ chung thất, thôi cúng cơm cho người chết. Gia chủ thường mời thầy cúng và mua nhà cho người chết.

Tuần Tốt khốc (100 ngày)

Khi người chết được 100 ngày, gia chủ làm lễ tốt khốc (thôi khóc). Gia chủ thường mời thầy cúng, đốt tang phục, đốt nhà cho người chết và đưa di ảnh người chết lên ban thờ tổ tiên.

Giỗ đầu (Tiểu tường)

Sau 1 năm âm lịch, gia đình người chết sẽ tổ chức giỗ đầu nhằm mục đích nhớ về người đã khuất.

Mãn tang (Đại tường)

Sau khi người chết được 3 năm (địa phương khác là 2 năm), gia chủ làm lễ hết tang.

Nguồn:
Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính, NXB VH, 2011

17 September 2018

ĐÔI ĐIỀU GHI CHÉP TÌM HIỂU ĐỨC ÔNG ĐỆ TAM

Trích từ FB / Phủ Thủy



Cung nghinh Hóa nhật triều thiên Trần triều TIẾT ĐỘ SỨ    tiến phong NHẬP NỘI  THÁI UÝ ,  VĂN MINH QUỐC CÔNG ,  GIANG HƯƠNG CHIÊU CẢM  HƯNG NHƯỢNG ĐẠI VƯƠNG ,TRẦN QUỐC CÔNG  Húy T - ảng  (3/8)

Đôi điều về Đức Ông :

- Kính thưa , trong tín ngưỡng thờ nhà Trần , vai trò của Đức Ông Đệ Tam Đông Hải Đại Vương rất quan trọng , cũng là một trong những giá Thánh thường xuyên thượng đồng nhất khi hầu về nhà Trần . Công huân bình Nguyên phạt Sầm của Ngài to lớn , sự nghiệp bảo quốc hộ dân anh uy đã rõ ràng . Dân cảm ơn ấy mà thờ tự , ức niên hương hỏa vạn cổ miếu đường . Ấy vậy , trong hành trạng của Ngài còn nhiều điều chưa được tỏ tường khiến cho môn đệ đồng tải của Ngài cũng có những sai lạc khi chưa hiểu hết nên dẫn những quan niệm khác nhau trong việc thờ và khi ốp bóng Ngài . Họ Trần nay lạm bàn như sau :

1 . Nói đến Ngài , người ta thường nhắc đến tội xui cha tạo phản , rồi bị đày ra vùng Đông Bắc đến chết không cho gặp , đến nỗi uất quá mà treo cổ tự vẫn . Dẫn tới khi hầu Thánh , phát sinh ra các quan điểm về Thượng Từ không được thỉnh Ngài , và chỉ có Ngài mới lên đai thượng để tỏ rõ nỗi oan của mình . Điều đó đã hẳn là đúng chưa ?
Về câu chuyện tạo phản , có chép trong Đại Việt sử kí toàn thư , sau được ghi lại trong các sách Trần triều chính kinh sơ biên , tập biên đời Nguyễn ... câu chuyện có nhắc tới mối hận giữa Chiêu Lăng Thái Tông nhà Trần và anh trai An Sinh Vương Liễu , cùng lời trăng trối phải lấy được thiên hạ với Hưng Đạo Vương . Dẫn tới khi Đức Hưng Đạo cầm quyền tiết chế , quân quốc trong tay , những lời dị nghị về việc thích vua cướp ngôi nổi lên , nhiều người lo sợ Vương sẽ tạo phản . Thực tế chứng minh lòng trung trinh của Vương hết lòng với dân với nước , những chuyện tắm cho Thái Sư Chiêu Minh Vương , vứt gậy sắt bịt đầu ... đều là những hành động để xoá bỏ hận thù giữa hai nhà , thể hiện lòng trung quân . Trong những diễn biến chính trị đó , cho phép tôi nghĩ rằng , câu chuyện xui cha làm phản cũng được dựng lên nhằm để chứng minh điều đó . Cao trào được đẩy lên đến mức Đức Vương rút kiếm chém con trai mình tỏ lòng trung và lời dặn chết không nhìn mặt . Với cá tính thẳng thắn cương mãnh , Đức Ông đệ tam có lẽ đã được chọn , ông đã phải dùng thân mình và danh dự cùng chữ hiếu để chứng minh sự trung quân của Cha , giúp cho Đức Ông Hưng Đạo nắm quyền toàn bộ cả nước mới có sức đánh giặc giữ nước , cũng là cứu cho toàn bộ con cháu An Sinh Vương thoát sự nghi kị của triều đình . Ngài đã mang tiếng oan hơn bảy trăm năm rồi .

Hơn nữa ,nếu là người có lòng tạo phản , sau này khi bình Nguyên xong triều đình sao vẫn để Ngài nắm quyền quân sự , vẫn phái đi đánh dẹp các nơi như sách Sầm ( 1296) ,hai con gái được lấy vua , một người làm hoàng hậu , con trai 14 tuổi được phong Đại Vương ... những vinh hiển như thế nào dành cho một người manh tâm tạo phản . Có lẽ triều đình nhà Trần nhận ra ngài oan , nên vẫn dùng như thế .
Với sự quí hiển về cuối đời , Ngài là quốc trượng , thân vương , sau khi thăm lại nơi chốn xưa , đã không bệnh mà hoá , năm ấy đã ngoài bảy mươi . Chính sử đã ghi rõ ràng như thế , Đâu có câu chuyện treo cổ tự tử như xưa nay vẫn nói . Thực sự là thiếu hiểu biết đặt điều cho Thánh .

- Thờ Thánh theo Đức của Ngài , bậc sinh vi tướng tử vi thần , đã trút những ân oán phàm gian làm một bậc hiên Thánh thì đâu có chấp chi chuyện khi còn tục cốt phàm gian . Trong sách ghi , Đức Ông nói đậy nắp quan tài mới cho vào ,chứ ko nói rõ từ mặt cấm cửa . Trong các chính từ thờ nhà Trần vẫn để tượng pháp ngai khám bài vị bát hương thờ nhà Ngài , khoa cúng thỉnh vẫn để tên ngài , thậm chí trong Trần triều chầu văn tập , trong Tứ Vị Thánh Tử chỉ Ngài có văn chầu riêng . Sự thờ lễ như vậy , há là trần gian muốn bỏ là bỏ hay sao . Thực đem tâm phàm áp cho Thánh , bất kính nhường nào .
- lại nói chuyện lên đai thượng . Tuy nói thờ theo Đức , ko thờ theo sức của Thành được , nhưng những phép đai thượng xiên lình , lấy dấu , hài hồng , cự lực ... cũng là những phép phương tiện thị hiện ra để lấy uy cho Thánh , dẫn nhân nhập đạo , lấy cái thực để tỏ bày cái hư mà thôi . Là phép phương tiện thì sao chẳng được , miễn làm quá lố thì đều được cả . Hỏi các cụ đồng già khi trước , phàm ai xiên lình mà chả lên đai thượng trước , không riêng Đức ông Đệ Tam mới phải tỏ lòng oan bằng thắt cổ .

2 - Một vấn đề nữa về nơi hoá hiển của nhà Ngài . Lâu nay chúng ta vẫn nghĩ Ngài bị đày ra trấn vùng Đông Bắc , nên khi tự sát để lấy linh khí bảo vệ non sông , cho rằng ngài hoá tại đây nay là vùng cửa Ông cẩm phả quảng ninh . Nhưng theo nhiều tài liệu và nghiên cứu điền dã , đã chỉ ra rằng đất Ngài được phong là ơ vùng Ninh Bình , Hải Dương , Hải Phòng(hiện còn rất nhiều làng thờ làm thành hoàng làng như Chùa Long Đẩu , Đình Trùng Thượng , Trùng Hạ ...) . Về địa danh Vườn Nhãn Trắc Châu , nơi mũ đá sạp đá Ngài hoá hiển để lại , nay chính là xã AN CHÂU  huyện Nam Sách , Hải Dương gần bến đò Hàn . Cũng kể ra thế , để những ai có lòng tầm nguyên phỏng cổ có nhân duyên biết được có lòng về chiêm bái dấu xưa , không để mai một dấu Thánh thiêng liêng  . Trong ảnh là sập đá truyền rằng Ngài ngồi lên khi hóa trôi về Trắc Châu



Vậy có thơ đề rằng :

Hàn Giang cuồn cuộn chảy về đông 
Nhớ xưa Nhị Thánh buổi bình Mông 
Đức Ông giáp mã theo phù tá 
Phụ tử tâm bào chẳng quản công 
Vãn tặc tái hồi thăm đồn cũ 
Một giờ gió cuốn hóa lên không 
Thạch sàng mũ đá lưu để lại 
Theo dòng con nước nổi mênh mông 
Về đến Thanh Lâm vườn nhãn xứ 
Khí thiêng hóa hiển phép thần thông 
Dân xứ Trác Châu ghi sự ấy 
Dựng nơi lưu dấu Lục từ Công 
Trải bẩy trăm mùa như thường tại 
Biến thiên dâu bể phút thành không 
Thạch sàng lòng giếng còn hay mất 
Mũ đá lặn về với đáy sông 
Bùi ngùi miếu vũ thành hoang lạnh
Thẹn lời nhân thế chửa báo công..

17 April 2015

Tìm hiểu bệnh trần và bệnh âm

iểu tượng cảm xúc grin


Dạo này có "mon men" vào một số trang về Đạo Mẫu để đọc stt của các đồng anh, lính chị, có thấy một số đề cập đến vấn đề mà các mem của ĐA cũng từng hỏi như: Có phải khi chấm lính bắt đồng thì như người mất hồn, lãng trí, hay quên...lúc nào cũng như trên mây. Việc âm thì nhanh lắm còn việc dương thì chẳng nhớ gì không? và nhiều câu hỏi của các mem về vấn đề bệnh do căn quả. Hôm nay, AD muốn chia sẻ với các bạn nội dung này. Bênh do căn quả (phần âm), căn số, hay bệnh do các yêu tố khách quan, thói quen ăn uống, sinh hoạt thiếu khoa học mang lại nhé.

Các nguyên nhân bệnh tật của con người theo tôi như sau:
  • 1. Do yếu tố khách quan, mội trường sống, lao động, thói quen sinh hoạt ăn uống mang lại bệnh tật - Ta gọi đó là bệnh trần.
  • 2. Bênh do căn số của con người 
  • 3. Bệnh thuộc về phần âm.

Vậy chúng ta phân biệt như thế nào?

1. Bênh do yếu tố khách quan... - Bênh trần: Là những căn bệnh phổ biến, nguyên nhân do các yếu tố khách quan như môi trường ô nhiễm, khói bụi, nguồn nước bẩn. Do chiến tranh (vũ khí hóa học, sinh học), do thiên nhiên khắc nghiệt như quá nóng hay quá lạnh....do thói quen ăn uống mất vệ sinh,...do sinh hoạt không điều độ thức khuya, ngồi nhiều lười hoạt động, do chơi điện tử vô độ, do đọc truyện viễn tưởng quá nhiều không ngủ đầy đủ để cho đầu óc được giải tỏa nghỉ ngơi..v.v...
VD: Bạn thường xuyên thức khuya ngủ không đủ, ngồi nhiều lười hoạt động kiến cho thận bế, đầu óc lúc nào cũng căng ra không được nghỉ ngơi, khi ngủ thì mệt mỏi mộng mị linh tinh ...đi xem thầy phán có căn quả thế là về suy nghĩ lo lắng ngày đêm

Hay các bạn bi mộng du là do cơ thể tỉnh trước não bộ còn bóng đè là cơ thể tỉnh trước não bộ báo hiệu sự mệt mỏi quá sức, bế tắc của cơ thể.
Bênh dương trần chỉ mang tính giai đoạn khi ta uống thuốc , thay đổi thói quen sinh hoạt ăn uống, môi trường sống và làm việc bệnh sẽ hết.
Với những căn bệnh thuộc về dương trần này chúng ta phải tìm các bác sĩ tây y hoặc đông y để điều trị. Trong trường hợp này các bạn cầu cúng chỉ vô ích, tiền mất mà tật vẫn mang, Tự biến mình thành người mê tín, tự đầu độc thân và tâm mình.

2. Bênh do căn số: Là những bênh do nghiệp quả từ kiếp trước, có từ khi sinh ra và phải mang theo cho đến chết như: què chân/tay, mù câm điếc...hoặc dị tật bẩm sinh, tứ chứng nan y...Đối với những bệnh tật này thì nặng nề không có cách và không thầy bà nào có thể chữa được.
3. Bệnh do phần âm:

Bệnh mang tính cấp tính, giai đoạn, thuốc thang khắp nơi không khỏi, không tìm ra nguyên nhân. Vào viện thì khỏe mạnh, tỉnh táo về nhà lại lăn ra ốm như chưa vào viện. Những bệnh này do nguyên nhân sau:

- Bệnh do đồng mồ mả.
- Bệnh do nghiệp quả của cha ông để lại:

Đối với loại bệnh này có thuốc thang chạy chữa cũng như không, nếu nghiệp nhẹ thì có thể vài ba năm, dăm bảy năm bệnh tự khỏi; nếu nghiệp nặng thì bệnh đeo bám lâu dài gây rất nhiều phiền toái, hệ lụy bất ổn cho cuộc sống của bản thân và gia đình.
Chẳng hạn có những người đột nhiên mắc chứng đau đầu liên miên mà qua kiểm tra bằng y học hiện đại không phát hiện ra chứng bệnh gì, tìm hiểu bằng soi căn, gọi hồn, thì biết bệnh đó là do một vong linh tiền bối thân nhân khi hồn tiền dương thế bị ngã từ trên cao xuống vỡ sọ, vong này hợp mệnh, hợp vía với đương số nên mới sinh ra chứng bệnh lạ kỳ như vậy.
Một số trường hợp khác thì bị đau chân, đau tay, tìm hiểu thì biết có vong hợp mệnh bị giam cùm trong địa ngục….
Bệnh thuộc dạng này thì cần phải tiến hành những công việc như phả độ gia tiên, cầu siêu, hoàn thân hoàn cốt … tùy theo nguyên nhân cho những vong linh liên quan, sau khi làm lễ xong thì một thời gian ngắn sau đó bệnh tự nhiên sẽ hết.
- Bệnh do vong linh gia tiên
Có vong linh gia tiên có nỗi oan ức cần bày tỏ nên nhập vào đương số gây ra hoặc do đương số có lỗi lầm gì với tổ tiên mà bị trách phạt:
Bệnh trạng trong trường hợp này thì cần phải tiến hành làm lễ giải oan ức cho vong linh hoặc tạ lỗi với tổ tiên thì bệnh sẽ hết.
- Bệnh do yêu ma quỷ quái xâm nhập: 
Bệnh này thường khiến đương số có những hành động kỳ quặc, ăn nói khác lạ, tính nết bất thường,… Muốn khỏi thì phải trừ yêu, diệt ma hoặc tìm hiểu kỹ lý do chúng muốn quấy phá làm hại mà có biện pháp thích ứng với từng vụ việc .
- Bệnh do khai căn, luyện đồng: 
Những người có mệnh đồng căn quả mà không biết, đến thời hạn bị chấm đồng bắt lính mà không hay, thì sẽ bị phạt căn. Có thể ốm yếu tới mức bò lê bò lết ở nhà nhưng khi tới đền, điện, phủ thì lại khỏe mạnh vui tươi như thường. Hoặc ở nhà thì bị đau bụng quằn quại, nhưng tới bệnh viện kiểm tra lại tự nhiên hết đau mà tìm không ra được chứng trạng gì. Đối với thể loại bệnh này thì chỉ còn cách là xin khất đồng hoặc ra trình đồng mở phủ thì mới khỏi được.

Các mem ơi, với những gì AD đã chia sẻ ở trên hẳn đã giải đáp được phần nào thăc mắc của các bạn đã hỏi. Theo AD thì cái gì thuộc về dương ta nên tìm bác sĩ vào bệnh viện điều trị, những gì do căn số, số phận đã vậy thì các bạn nên tu dưỡng, làm lành lánh giữ để tâm thân được thanh thản, gạt bỏ mặc cảm vươn lên là người có ích cho XH.Còn những căn bệnh thuộc phần âm thì nên bình tĩnh suy xét nguyên nhân, kêu gia tiên tổ cô ông mãnh về chỉ bảo. Tìm Thầy có tâm có đức sáng mà theo học đạo, tu tâm trả nghiệp mọi việc sẽ thay đổi từ từ các bạn nhé.
Chúc các bạn an lạc
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa[2]. na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất bà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ, Ta Bà Ha.

Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng . Hàng Ông Hoàng gồm:

01- Ông Hoàng Cả ( Thượng Thiên )
02- Ông Hoàng Đôi Thượng Ngàn ( Người Nùng )
05- Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc
06- Ông Hoàng Tư
07- Ông Hoàng Năm
08- Ông Hoàng Bảy ( Bảo Hà )
09- Ông Hoàng Bát

Tứ phủ Thánh Cô

Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
3 - Cô Tư Ỷ La
7 - Cô Bảy Kim Giao
10 - Cô Mười mỏ ba
11 - Cô bé Thượng ngàn ( cô bé Đông Cuông /Cô Bé Suối Ngang ( Hữu lũng ) / Cô bé Đèo Kẻng ( Thất Khê ) / Cô Bé Tân An ( Lào cai ) / Cô bé Cây xanh ( Bắc Giang ) / Cô bé Nguyệt hồ ( Bắc Giang ) / Cô bé Minh Lương ( Tuyên Quang ) / Cô bé Cây xanh ( Tuyên Quang ) / cô bé Thác Bờ ( hòa Bình ) / Cô bé Thoải phủ

Bánh Xưa ( Hà Nội )

Bánh Xưa ( Hà Nội )
Cung cấp Bánh khảo - bánh in huế truyền thống / 0965111991