Showing posts with label Việt nam tôi yêu. Show all posts
Showing posts with label Việt nam tôi yêu. Show all posts

03 April 2011

Tục ăn bánh trôi bánh chay của người Việt

Tiết Thượng Tỵ mùng 3 tháng Ba (ngày Tỵ đầu xuân), người Việt Nam ta có tục lệ ăn tết “Hàn thực” (theo tiếng Hán Việt có nghĩa là ăn nguội), dân gian gọi nôm na là Tết mùng 3 tháng Ba hay Tết “bánh trôi bánh chay”.
Về nguồn gốc, có thể coi đây là một lễ thức nông nghiệp truyền thống ở Trung Hoa cổ đại, được đan xen vào văn hóa dân gian Việt Nam. Truyện xưa kể lại rằng nhà Tấn có người tôi trung là Giới Tử Thôi, sau bị vua hắt hủi nên dắt mẹ vào rừng ở, đến khi vua nhớ ra công trạng mời về thì Thôi nhất quyết không chịu, vua không có cách nào liền cho phóng hỏa đốt rừng hòng buộc Thôi phải đưa mẹ ra. Rốt cuộc cả 2 mẹ con chịu chết cháy. Đó là ngày 3 tháng Ba. Vua thương xót cho lập miếu thờ, hàng năm đến ngày này thì làm giỗ, có tục kiêng đốt lửa (thường làm trong 3 ngày = thời gian canh người chết), đồ ăn trong nhà phải làm sẵn từ hôm trước để hôm sau ăn lạnh (nguội). Vì vậy mà gọi là “Hàn Thực”. Đến thời Tống, sau 3 ngày còn thực hiện lễ thức “nhóm lửa lại” rồi mới nấu nướng như ngày thường. 






Thực ra, “tắt lửa” và “nhóm lửa lại” là những nghi lễ nông nghiệp có nguồn gốc xa xưa lắm rồi. Người Việt ta ăn Tết Hàn thực, có lễ thức làm bánh trôi bánh chay cúng gia tiên nhưng không kiêng đốt lửa, cũng chẳng mấy ai nhớ hay biết gì đến Giới Tử Thôi. Theo tục lệ cổ truyền người Việt, mùa xuân lấy tiết mùng 3 tháng Ba làm ngày tế tổ, đánh dấu sự chuyển thời tiết hàng năm từ mùa xuân sang mùa hạ. Vì thế đây còn là một ngày hội mùa, một dịp giải trí vui chơi, gặp gỡ giao duyên trước khi người Việt tiễn biệt những ngày ăn chơi của mùa xuân.

Món ăn nguội mà người Việt thường dùng trong Tết mùng 3 tháng Ba là “bánh trôi” và “bánh chay”. Bánh trôi là thứ bánh tròn, màu trắng, nhỏ như viên bi đất. Bánh được làm bằng bột gạo nếp bọc nhân đường phèn hay mật phên xắt vuông hạt lựu. Người ta nặn bánh rồi bỏ vào nồi nước đang sôi. Đun một lúc cho tới khi bánh nổi lên thì vớt ra đĩa và rắc vừng lên trên. Khi ăn, bánh có vị ngọt của đường/mật, vị thơm của vừng và cái dẻo ngon của bột nếp hòa quyện vào nhau rất tinh tế. Dân gian coi hình tròn của bánh là tượng trưng cho Trời (Dương), hình vuông của nhân là tượng trưng cho Đất (Âm). Trời bao bọc đất, Âm Dương tan hòa vào nhau. Ông cha ta quan niệm đó là sự giao hòa của vũ trụ, tạo vật và con người, đó cũng là lúc vạn vật sinh sôi nảy nở, cây cối tốt tươi…. Một mô típ tín ngưỡng phồn thực phổ biến trong cư dân nông nghiệp.

Còn có một chuyện kể khác về ý nghĩa của bánh trôi bánh chay. Ấy là sự mô phỏng tích trăm trứng trăm con của truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ. Lễ tục này được diễn lại vào lễ hội Đền Hùng (10/3 âm lịch) và ngày hội đền Hát Môn (5.3 âm lịch) – Đền thờ Hai Bà Trưng. Trong lễ này, dân làng làm một mâm gồm 100 cái bánh trôi để dâng cúng, sau khi thắp hương xong họ chia số bánh làm 2 phần: 50 cái đặt trên bè sen thả xuống sông, 50 cái đem rước đặt lên đỉnh núi. Đó cũng chính là biểu tượng của sự phân chia Cha Rồng Mẹ Tiên với 50 người con theo mẹ lên non và 50 người kia theo cha xuống biển. Tập tục này như vậy không chỉ mang yếu tố tín ngưỡng đơn thuần mà còn là ý thức nhắc nhở con cháu người Việt luôn nhớ tới cội nguồn, khẳng định sự đoàn kết các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Sau khi xong lễ đặt và thả bánh, mọi người được phép ào vào tranh nhau lấy bánh để cầu phúc lộc…


Ngoài bánh trôi còn có bánh chay, hay “bánh dùng”/”bánh mật” như thường gọi ở một số làng quê vùng Đất Tổ (Vĩnh Phúc,Phú Thọ). Bánh này hình tròn bẹt, cũng được làm bằng bột gạo nếp, khác ở chỗ nhân bánh làm bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ rồi đồ chín được bóp nhuyễn. Khi ăn người ta không bày ra đĩa mà xếp vào bát, mỗi bát 3 chiếc bánh rồi chế nước đường hoặc bột sắn dây quấy loãng, thả thêm trên mặt bát một ít đỗ xanh đồ chín hoặc vừng. Người ta cho rằng 3 chiếc bánh tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng, Trái Đất, đỗ và vừng là các vì sao lớn nhỏ… tất cả hợp thành vũ trụ trong món ăn. Tuy nhiên đấy là cách diễn giải cầu kỳ và lý thuyết của người phố thị, còn ở chốn thôn quê bình thường thì món bánh mật/bánh dùng được làm giản đơn hơn: Bột nếp hòa nước nguội nặn thành bánh tròn dẹt vừa trong lòng bàn tay; không cần nhân bánh; hòa mật (mía) với nước đun sôi cho vừa sánh thì thả bánh vào; bánh chín cho ra bát hoặc đĩa lõm, chan nước mật cho ngập mặt bánh, có thể rắc thêm vừng hoặc ăn vậy cũng rất ngon. Bánh này có vị ngọt đậm đà của mật kết hợp với sự dẻo quánh của nếp thơm tạo nên một ấn tượng dân dã, khó quên. Đã từng là một món quà mà lũ trẻ con rất ưa chuộng trong những năm tháng của ngày xưa, chỉ được thấy vị ngọt của kẹo của đường trong một năm đôi ba lần tết, tiệc.

Bánh trôi và bánh chay là hai thứ bánh có hương vị đặc biệt riêng của Việt Nam, lại có ưu điểm là dễ làm, chỉ xem hoặc đọc qua một lần là biết. Vì thế cho nên bánh trôi và bánh chay vẫn được dân gian bảo lưu truyền từ đời này sang đời khác, ở vùng này vùng khác. Đây là một trong những nét đẹp văn hóa dân tộc của người Việt, 
PM : " Mọi người vào blog , mời mỗi người 1 đĩa bánh trôi , 1 bát bánh chay " đề nghị không chen lấn xô đẩy "



Thăm đền Ông Hoàng Bảy Bảo Hà và Cô Tân An, Lào Cai!



8h sáng, bản hội lên đường, thẳng tiến đền Ông Hoàng Bảy Bảo Hà, Lào Cai. Đường mới làm xong, phẳng lì, trơn nhẵn như dải lụa, mềm mại, quanh co uốn khúc..Hai bên đường toàn gương cầu, xe nhô ra, hụp vào, xe nọ khuất tầm xe kia...Thân xe dài, đầu xe bên này, đuôi vắt bên khác, mình say lử cò bợ, nôn thốc nôn tháo, nằm bẹp như con gián...Mọi người an ủi, bảo là đêm qua ngủ muộn, lại suốt ngày nghe đt, nhắn tin, điều hành xe cộ...nên mới thế! Riêng mình, ngờ ngợ một điều...bị Ông quở, bởi vì sớm nay, sợ mọi người mệt, nên mình đã gàn, bảo ngủ rồi về, không lên Ông nữa...Y như rằng...lầm rầm khấn nguyện "xin Ông tha cho, con biết lỗi ạ"...Non 100km, tính từ Mẫu Đông Cuông...mãi rồi cũng tới nơi...Đền Bảo Hà< đền thờ thần vệ quốc Hoàng Bảy >, được xây dựng ngay chân đồi Cấm, bên bờ sông Hồng, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
                    
Khu vực đền, phong cảnh hữu tình "trên bến dưới thuyền" theo thuyết "phong thủy", có tiền án, hậu trảm, tả phù, hữu bật, là nơi thờ một danh tướng đời Lê, có công dẹp giặc, giữ nước, chiêu dụ nhân dân khẩn điền, khai mỏ, xây dựng quê hương...Đến thăm đền Ông, có thể đi bằng dường bộ, đường thủy, đường sắt một cách tiện lợi.
                     
Ông là danh tướng thứ bảy họ Nguyễn lên trấn phủ vùng biên ải, tiến dọc sông Hồng đánh đuổi giặc cướp vùng Vân Nam , giải phóng châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Trong một trận chiến đấu không cân sức với giặc phương Bắc, ông đã anh dũng hy sinh, xác ông trôi theo sông Hồng tới Bảo Hà thì dạt vào bờ...Các triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị đã tặng ông danh hiệu "Trấn An hiển liệt", các triều vua nhà Nguyễn sắc phong ông là "Thần Vệ Quốc". Ngày 7/9/1998, Đền Bảo Hà được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Ngày 17/7 âm lịch hàng năm là ngày giỗ ông, khắp nơi náo nức trẩy hội, đến hương nhang, cầu ông phù hộ cho làm ăn dược an khang, thịnh vượng! Vì Ông là vị Thánh trong lòng dân, chiêu mộ được cả người Dao, người Thổ và đặc biệt là người "Nùng áo xanh" khẩn điền, khai mỏ...nên nhân dân rất yêu quí, ngưỡng mộ Ông! Họ dâng Ông quần là áo lượt, y phục mã ngựa, dâng cả các cô tiên theo hầu, bàn đèn thuốc phiện...bộ bài lá, tam cúc, cờ tướng...thôi thì đủ sở thích của con người....
                    
Con nhang đệ tử của ông, vì vậy rất đông, ở khắp mọi nơi...Từ trong đền ra ngoài sân, tấp nập chiếu hầu, tiếng hát nỉ non, đàn ca sáo nhị, trống phách tưng bừng!
                    
Bản hội dâng Ông lễ mặn lễ ngọt, y phục mã ngựa, sớ sách tiền vàng...Mình dâng thêm thẻ bài, lệnh của công ty, cầu cho các con ngựa sắt thượng lộ bình an, đi đến nơi về đến chốn, an toàn tuyệt đối, trên từng cây số!...Đi đâu cũng mua công đức, trước là lễ tạ dâng hương, sau là góp phần tu tạo...Thấy lòng nhẹ nhõm, phấn khởi, sung sướng!...Bữa trưa dọn ra, cả đoàn đói ngấu...Bắp cải luộc, tô nước nghi ngút thơm mùi gừng, đậm đà chút gia vị, thịt gà rang, ngan luộc, lợn sữa quay, kim chi muối, xoài xanh dầm mắm đường tỏi ớt uống rượu, trứng đúc thịt, bánh chưng dền xanh...Ăn như chưa bao giờ được ăn vậy! Tráng miệng bánh gio mật, chè sen thơm ngát, nóng giãy tay...hồn bay bay nghe dư âm cuộc sống!...Sang đền Cô Tân An, dâng Cô Bé, Cô Bơ quần áo, vàng mã, dâng công đức, sớ sách xin Cô cho khỏe mạnh, bình an, Cô thương các Ún Tiểu thông minh dĩnh ngộ, học hành tấn tới...Xin Cô phù hộ cho Khanh gặp quí nhân phù trợ, thành công trong học tập, tiếp tục đạt học bổng ở những năm tiếp theo!
                    
                    
Cả đoàn ra về, hí hửng vui mừng! Chuyến đi đã thành công mỹ mãn, được bao nhiêu việc! Lên xe, cơm no rượu say, nghe nhạc, ngủ khì...Càng chắc chắn mình bị Ông quở, may mà... Hú vía! 2 ngày nhận 6 chuyến xe, trôi chảy trót lọt, cấp cứu tức thì. cháy xe khét lẹt, vẫn giải quyết ngay và luôn < Ơn Trời, vái Phật, các Ngài thương!>...
                         Đường đi gấp khúc quanh co...
                   Tưởng rằng không đến...Ông cho...hết về...
                         Đã đi..đã hứa...đã thề...
                   Lần sau xin nhớ một bề...trung trinh!
                        Linh thiêng...rất đỗi...hiển linh...
                  Ngàn năm tạc dạ...tôn vinh...muôn đời!
......Đàn ca sáo nhị...thú chơi...
Ăn ngon mặc đẹp...vẽ vời bài quân
     Các nàng Tiên.. hát... quây quần
Bàn đèn thuốc phiện...muôn phần....đắm say!
                   Nhưng Ông vẫn nổi tiếng...hay...
               Lộc tài Ông vãi lát đầy...sơn lâm
                  Trời Nam nổi tiếng uyên thâm
              Ông cho một số...cả năm nằm dài!
       Vái lạy Ông! Vái lạy Ông!!!

29 March 2011

Độc đáo "lễ hội đánh cá người”


BEE.NET.VN - Sáng 14/2 tại đình làng Thai Dương (thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) đã diễn ra các phần chính Lễ hội cầu ngư với sự tham gia của hàng ngàn dân địa phương.
Theo thông lệ, Lễ hội cầu ngư làng Thai Dương cứ 3 năm diễn ra một lần để cầu cho mưa thuận gió hoà, dân làng làm ăn phát đạt. Lễ hội diễn ra trong hai ngày với các hoạt động như: lễ Cầu an, lễ Chánh tế, lễ Tưởng niệm, lễ Cầu ngư, đua thuyền trên phá Tam Giang…
Lễ hội là sự tái hiện một cách sinh động các hoạt động ngư nghiệp với mong muốn có một vụ mùa mới tôm cá đầy thuyền… Trong các phần lễ hội thì trò đánh "cá người" được xem là độc đáo nhất.
Một số hình ảnh lễ hội PV Bee.net.vn ghi lại:
Trong Lễ hội cầu ngư có Lễ Cung nghinh thần hoàng Thai Dương được rước đi khắp làng vào ngày 13/2
Trong Lễ hội cầu ngư có Lễ Cung nghinh thần hoàng Thai Dương được rước đi khắp làng vào ngày 13/2
Mặc dù mưa nhưng có hàng ngàn người đổ về xem lễ hội
Trời mưa nhưng hàng ngàn người vẫn đổ về xem lễ hội
Khai hội trò đánh
Khai hội trò đánh "cá người"
Những chiếc cần cầu cá đã mắc vào tham gia lễ hội
Những chiếc cần câu cá đã mắc vào tham gia lễ hội
Thuyền và người ra khơi
Thuyền và người ra khơi
Một bô lão trong là thả mồi nhử cá vào ăn (cá là các em học sinh)
Một bô lão thả mồi nhử cá vào ăn (cá là các em học sinh)
Thấy cá vào ăn các ngư dân buông lưới
Thấy cá vào ăn các ngư dân buông lưới
Và cá mắc phải lưới
Và cá mắc phải lưới
Một con cá đã bắt gọn
Một con cá đã bắt gọn
Gánh cá ra chợ đi bán
Gánh cá ra chợ đi bán
Và thành quả sau nhưng chuyến ra khơi
Và thành quả sau những chuyến ra khơi
Đắc Thành - Nguồn: Bee.net.vn.

14 March 2011

Dự lễ lên đồng tại bản đền Đông Kết ( P1 )













BLOG DỰ HẦU ĐỒNG TẠI ĐÔNG KẾT - HƯNG YÊN  ( NGÀY 13/03/2011 )
Thanh đồng  : Nguyễn  Thị Liên 
Bản Đền  : Đông Kết - Khoái Châu - Hưng  Yê
Hình ảnh : mantico
Tham gia :  Phúc ( cô chín ) / Thái ( tuyên quang ) / mantico ( admin ) /  
Giá đồng :  Chầu Bé ( Bắc lệ ) / Quang Hoàng Bảy / Cô Chín ( Đền Sòng Sơn) 

Lễ rước kiệu Đình làng Phương Trù











Lễ hội đình làng Phương Trù - Khoái Châu - Hưng Yên  (8 đến 10 tháng 2 âm lịch)
Hình ảnh :  Mantico 

09 March 2011

Dự lễ mở phủ tại Bản đền Mẫu Đầm Sen




Đền Mẫu Đầm Sen 
-----------------------------------------------------------------------------
Đền Mẫu đầm Sen trước đây nằm kề bên dòng sông Tô, bên này là đầm nước rộng lớn thuộc làng Định công Thượng -  xã Định Công (xưa thuộc hạt Thường Tín) nay là quận Hoàng Mai. Tên gọi đền Mẫu đầm Sen là bởi ngôi đền này là chốn cung thờ Đức Thánh Mẫu Bàn Cảnh chốn đầm sen, quanh năm sen mọc tươi tốt, mùa hạ sen nở hoa, hương thơm toả ra ngào ngạt. Ngôi đền được xây dựng từ thời vua Hùng vương thứ 17. Tương truyền, trong một chuyến vi hành, vua Hùng vương thứ 17 đã gặp một người con gái tài sắc tại làng Định Công và lấy nàng về làm vợ, chính là vị Hoàng hậu thứ 5. Trải qua thời gian, cho đến nay ngôi đền vẫn tồn tại và trở thành một trong những ngôi đền thờ Mẫu linh thiêng. Mùa xuân đến, người người lại trở về đền làm lễ cầu may, cầu phúc, hưởng lộc của Thánh mẫu


Một số hình ảnh lên đồng tại Bản đền Mẫu Đầm Sen
Đồng thầy : Phùng Minh Trí  khai đàn mở phủ cho con nhang tại bản đền Mẫu Đầm Sen ( Hà nội 04.02 âm lịch )
- Giá Quan lớn Đệ Ngũ  Tuần : Chứng đàn tiễn mã Tứ phủ
- Giá Chầu Lục Cung :  Chứng đàn sang khăn

photo :  mantico











Một số hình ảnh Đồng tân linh mới  hầu đồng  sau lễ Mở  phủ
Thanh đồng : Dương Minh Tuấn 
Giá đồng : Chầu bé Bắc Lệ / Cô bơ thoải cung / Cô Chín ( Đền Sòng
Hình ảnh : mantico
---------------------------------------------------------------------------------------













07 March 2011

BLOG dự hầu đồng Tuyên Quang ( Đền Dùm )








Đền Thượng (xã Tràng Đà, thị xã Tuyên Quang), thờ Ngọc Lân Công chúa  mà dân gian vẫn thường gọi với lòng thành kính là Mẫu Thoải. Đền tọa lạc trên thế “Gối sơn nghênh thuỷ”, trước đền là sông Lô hùng vĩ, sau đền là núi Dùm.

Đền Thượng được xây dựng vào thời hậu Lê. Trải qua thời gian mưa nắng, ngôi đền bị hư hỏng, được trùng tu lại nhiều lần. Hiện nay phần kiến trúc cơ bản, những bức trạm trổ, đường nét hoa văn, hiện vật... còn giữ lại được tại đền đều thuộc thời Nguyễn.

Đền Thượng còn lưu giữ được 5 đạo sắc của các triều vua phong tặng cho thần. Hiện vật cổ nhất còn giữ được là sắc phong của vua Cảnh Hưng năm thứ 4 (1743). Nội dung các sắc phong của vua ban vừa mang dấu ấn lịch sử vừa mang tính chất văn chương, ca ngợi phẩm chất cao quý và sức mạnh linh thiêng của các nương thần phù trợ cho nước, cho dân. Văn bia và sử sách còn ghi rõ: Trong cuộc đánh dẹp khởi nghĩa của Nùng Văn Vân, Tổng đốc Lê Văn Đức đã làm lễ cầu đảo ở đền Thượng và đền Hạ. Dẹp loạn xong, nhà vua ban cấp sắc phong cho hai ngôi đền và dùng những mỹ từ cao quý nhất phong tặng cho các nương thần.

Đền Thượng nổi tiếng linh thiêng, quanh năm không chỉ người dân vùng Tuyên Quang đến lễ bái, cầu xin phúc lộc, mà khách từ bốn phương cũng về đây đông như chảy hội, nhất là vào những kỳ lễ hội chính 12-2 và 12-7 âm lịch hằng năm. Bà Nguyễn Thị Hoà, tổ trưởng tổ quản lý đền Thượng cho biết: Đền Thượng là một trong ba ngôi đền nổi tiếng linh thiêng của thị xã Tuyên Quang. Hàng năm, đền thu hút rất đông khách đến tham quan, vãn cảnh. Năm 2007, đền Thượng đã đón 41.812 lượt khách. Các hiện vật do khách thập phương đến công đức từ đầu năm đến nay trị giá 74 triệu đồng, bao gồm: ngựa gỗ, hạc gỗ, giá vàng...

Tục rước Mẫu của người dân thị xã Tuyên Quang đã có từ lâu đời. Vàongày 12-2 và 12-7 âm lịch hằng năm, lễ rước bắt đầu từ đền Ỷ La ra đền Hạ rồi từ đền Thượng về đền Hạ. Đây là lễ hội lớn nhất trong năm của người dân thị xã Tuyên Quang. Đến thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp, do loạn lạc, tục rước Mẫu đã bị lãng quên. 2 năm gần đây, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân, đồng thời khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội địa phương, UBND thị xã Tuyên Quang đã khôi phục tổ chức lễ hội đền Hạ, rước Mẫu từ đền Thượng về đền Hạ vào ngày 12-2 âm lịch. Trong những ngày diễn ra lễ hội, người dân địa phương tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, trò chơi dân gian như: Chọi gà, kéo co, cờ tướng, hát chầu văn...

Nguồn bài viết : Báo Tuyên Quang
Photo : mantico blog

28 February 2011

Đền Mẫu Ỷ La ( Tuyên Quang )

Theo sách Đại Nam nhất thống chí, Thần tích Đền Ỷ La và truyền thuyết dân gian đều kể lại :

Xưa có hai nàng công chúa con vua Hùng là Phương Dung và Ngọc Lân, một hôm theo xa giá đến bên bờ sông Lô (thuộc thôn Hiệp Thuận) đỗ thuyền. Nửa đêm trời mưa to, gió lớn, hai nàng đều hoá, nhân dân trong vùng lấy làm linh dị bèn lập đền thờ… Đến triều vua Cảnh Hưng, ngày 29 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1738) đền được xây dựng qui mô hơn. Tiếp đến, ngày 28 tháng 10 năm Đinh Hợi (1767), nhân dân lại xây thêm một ngôi đền nữa về bờ tả sông Lô, phía thượng nguồn, thuộc chân núi Dùm đặt tên là Đền Thượng. Đền Hiệp Thuận ở hạ lưu được gọi là Đền Hạ, thờ công chúa Phương Dung (người chị), Đền Thượng thờ công chúa Ngọc Lân (người em). Truyền thuyết cho hay, hai ngôi đền có nhiều linh ứng, nên từ xa xưa hai nàng được tôn làm Thánh Mẫu.

Triều vua nhà Nguyễn, nghe tin có một đảng loạn sắp tràn vào tỉnh lỵ, dân chúng đã vác tượng Mẫu chạy vào thôn Gốc Đa xã Ỷ La. Họ vừa kịp giấu pho tượng vào rừng cây thì quân giặc tới, nhưng chúng không phát hiện ra. Sáng hôm sau, thay vào chỗ bức tượng là một đống mối đùn lớn, dân làng cho là điềm báo ứng. Giặc tan, họ cùng nhau xây một ngôi đền mới thờ Thánh Mẫu ngay trên mảnh đất đó. Trong văn bia trùng tu Đền Hiệp Thuận năm Khải Định thứ năm (1920) cũng ghi lại nguồn gốc sự kiện này, ngoài ra cũng có đoạn viết: “Than ôi! Thần Mẫu linh thiêng cùng với tạo hóa, non sông nơi đây... Duy Thần Mẫu có công to với quốc dân xã tắc, linh thiêng chở che trăm họ, khiến dân được thuần phác, khiến ai ai khi đến đứng trước đền thờ phải cung kính, sợ sệt, khuyến khích người thiện, trừng phạt kẻ ác, chính là nhờ Thần ban cho vậy…”.

Sự hình thành Đền Mẫu Ỷ LaĐền Thượng đều bắt nguồn từ Đền Hiệp Thuận, cùng thờ Thánh Mẫu. Trong quan niệm dân gian, Đền Mẫu Ỷ La là nơi “lánh nạn” cho Thần (tỵ Thần), là nơi có địa thế linh thiêng chở che Thánh Mẫu, là nơi có khả năng bảo toàn cái Thiện, cho nên lễ hội Đền Thượng và Đền Hạ không tách rời Đền Mẫu Ỷ La. Hai vị Thánh Mẫu đều được thờ phụng ở 3 ngôi đền. Nhưng Đền Mẫu Ỷ La được chọn là nơi khởi kiệu, Đền Hạ là nơi hợp tế đều có những nguyên do lịch sử và tín ngưỡng dân gian.

Hàng năm, xuân thu nhị kỳ vào trung tuần tháng 2 và tháng 7 (âm lịch), lễ rước Kiệu Mẫu bắt đầu từ Đền Mẫu Ỷ La ra Đền Hạ, rồi tiếp đến lễ rước Kiệu Mẫu từ Đền Thượng qua sông về Đền Hạ để cùng hợp tế. Nghi thức uy nghi, có đầy đủ già trẻ gái trai và khách thập phương tham dự. Người rước Kiệu Mẫu phải là những nam thanh, nữ tú xứ Tuyên. Kèm theo lễ rước là múa lân, kết hợp dàn nhạc với lời ca. Những năm Đền được vua ban cấp sắc phong, nhân dân tổ chức lễ đón nhận long trọng, đông vui. Rước Mẫu là một sinh hoạt lễ hội lớn nhất từ xa xưa kéo dài đến thời gian đầu kháng chiến chống thực dân Pháp mới chấm dứt.

60 năm sau, năm 2006 lễ rước Mẫu lại trở về với xứ Tuyên trong niềm hân hoan của nhân dân. Đền Mẫu Ỷ La, Đền Hạ, Đền Thượng vừa là nơi bái vọng, vừa là nơi nhân dân góp sức làm từ thiện. Lễ hội Đền Hạ, Đền Thượng, Đền Mẫu Ỷ La tạo nên một không gian văn hóa độc đáo của xứ sở lâm tuyền. Song nghi thức lễ hội Đền Mẫu Ỷ La cũng có những nét riêng, ngoài việc thờ cúng Thánh Mẫu còn thờ cúng Thổ công, thờ Thành Hoàng Làng, tế các danh nhân và nạn nhân lịch sử ở địa phương, lễ cầu tự, cầu mưa... Chẳng hạn như lễ Giỗ Trận vào ngày 16 tháng Chạp hàng năm của nhân dân xã Ỷ La tưởng nhớ 86 người thiệt mạng trong một vụ thảm sát của giặc Cờ Đen ở thôn Đồng Khán cuối thế kỷ XIX. Ngoài lễ thờ Thánh Mẫu, người xưa cũng dành phần hương hoả cho hai ông họ Nguyễn có công sáng lập đền, đó là Nguyễn Thứ và Nguyễn Huy Côn.

Đền Mẫu Ỷ La còn để lại nhiều di sản vô giá. Trong đền hiện còn giữ được 2 quả chuông cổ và 16 tượng cũ, các đồ tế khí bằng đồng, sành sứ, các hoành phi câu đối, đề từ, sắc phong và thần phả. Nhưng đáng chú ý nhất là những di sản văn hóa phi vật thể. Đền còn lưu giữ được 6 bản sắc phong của 4 ông vua Triều Nguyễn như Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định phong cho Đền Mẫu Ỷ La. Nội dung các sắc phong đều đề cao công đức của Thần đã giúp nước, trợ dân sống an lành hạnh phúc và ban tặng cho các Thần những Mỹ tự cao quí. Chẳng hạnsắcphong của vua Đồng Khánh năm 1887 là “Dực Bảo Trung Hưng”; sắc phong của vua Thành Thái năm 1890 là “Tề Thục Trung Đẳng Thần”; sắc phong vua Duy Tân năm 1909 là Hiệp Thuận Trinh Ý Minh Khiết Tĩnh Quyên Nhàn Uyển Trai Thục Dực Bảo Trung Hưng Phương Anh Phu nhân trung đẳng Thần; sắc phong của vua Khải Định năm 1923 là: “Linh Thuý Trung Đẳng Thần”. Các ông vua đều đồng lòng với dân, thờ phụng các Thần và mong các Thần phù trợ cho nước thái, dân an.

Bài viết PGS.TS. Trần Mạnh Tiến
Nguồn ảnh :  mantico 's BLOG 
---------------------------------------------------------------------------
Một số hình ảnh đền Mẫu Ỷ La











Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa[2]. na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất bà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ, Ta Bà Ha.

Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng . Hàng Ông Hoàng gồm:

01- Ông Hoàng Cả ( Thượng Thiên )
02- Ông Hoàng Đôi Thượng Ngàn ( Người Nùng )
05- Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc
06- Ông Hoàng Tư
07- Ông Hoàng Năm
08- Ông Hoàng Bảy ( Bảo Hà )
09- Ông Hoàng Bát

Tứ phủ Thánh Cô

Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
3 - Cô Tư Ỷ La
7 - Cô Bảy Kim Giao
10 - Cô Mười mỏ ba
11 - Cô bé Thượng ngàn ( cô bé Đông Cuông /Cô Bé Suối Ngang ( Hữu lũng ) / Cô bé Đèo Kẻng ( Thất Khê ) / Cô Bé Tân An ( Lào cai ) / Cô bé Cây xanh ( Bắc Giang ) / Cô bé Nguyệt hồ ( Bắc Giang ) / Cô bé Minh Lương ( Tuyên Quang ) / Cô bé Cây xanh ( Tuyên Quang ) / cô bé Thác Bờ ( hòa Bình ) / Cô bé Thoải phủ

Bánh Xưa ( Hà Nội )

Bánh Xưa ( Hà Nội )
Cung cấp Bánh khảo - bánh in huế truyền thống / 0965111991