01 July 2012

Một kho dân ca và nhạc cổ truyền Việt Nam để Download

Tôi sưu tầm trên internet được một kho bài hát dân ca Việt Nam dưới đây . Xin trân thành cám ơn trước thành viên Tìm Lại Ký Ức (bác này có một kho vô cùng phong phú về các bài hát trên VOV, và mang chia sẻ lại cho cộng đồng ) của trang Nhạc Cách Mạng và một số bạn khác .
Các bạn có thể tìm bằng cách nhấn Ctr + F gõ cần tìm và next .

Bài Ca Người Trồng Lúa - (Hát chèo - Trường Giang) - Bích Được
http://www.mediafire.com/?cg0w3mkmk4kplke
(Điệu Chinh phụ)

Có Một Tình Yêu - (Hát Chèo - Vũ Tuấn Cự) - Thanh Hoài
http://www.mediafire.com/?0dil609fqrfs84l
(Điệu Chức cẩm hồi văn)

Đôi Ta Chung Tiếng Hát - (Hát chèo - Hoài Long) - Khắc Tư & Như Hoa
http://www.mediafire.com/?9iyb8j0gpj0k0za
(Điệu Chinh phụ)

Hát Tặng Người Trồng Hoa - (Hát chèo - Xuân Dinh) - Hồng Ngát & Tốp nữ Đội chèo Đài TNVN
http://www.mediafire.com/?qun4tq304a1c2ag
(Điệu Ru bống)

Niềm Vui Ân Nặng Nghĩa Tình - (Hát chèo - Đỗ Xuân) - Minh Nguyệt
http://www.mediafire.com/?4bs5wti26zg51wj
(Điệu Luyện nam cung)

Phong Thư Em Viết - (Hát chèo - Trần Quảng) - Hồng Ngát
http://www.mediafire.com/?926l8u2r8pax3l8
(Điệu Đào liễu)

Phong Thư Từ Đảo Nhỏ - (Hát chèo - Nguyễn Xuân Thấp) - Khắc Tư
http://www.mediafire.com/?giwydma1arumm3b
(Điệu Đường trường bắn thước)

Sáng Mãi Niềm Tin - (Hát chèo - Công Sáu) - Đăng Tỉnh
http://www.mediafire.com/?3qn2s3npabn1lfi
(Điệu Tình thư hạ vị)

Ta Gửi Cho Nhau - (Hát chèo - Trần Côn) - Trần Thị Tách
http://www.mediafire.com/?dlv204u5sj8tiv0
(Điệu Quạt màn)

Tâm Tình Cô Gái Chăn Nuôi - (Hát chèo - Mai Từ Linh) - Minh Tâm
http://www.mediafire.com/?b55gycgse96y8r7
(Điệu Chức cẩm hồi văn)

Thư Gửi Đảo Xa - (Hát chèo - Cao Bá Khoát) - Huyền Vy & Tốp nữ Đội chèo Đài TNVN
http://www.mediafire.com/?7klozvczk7o8too
(Điệu Chinh phụ)

Tiếng Hát Người Xây Dựng - (Hát chèo - Nguyễn Đỗ Lưu ) - Kim Đức
http://www.mediafire.com/?pe94ele3rnb0gla
(Điệu Sa lệch chênh & Hát cách)

Tiếng Hát Trên Công Trường Phả Lại - (Hát chèo - Khúc Hà Linh) - Minh Tâm
http://www.mediafire.com/?6ie7fpesf48hhzc

Trần Tình (Hát chèo) Thanh Hoài
http://www.mediafire.com/?m91ewvqvhn48zj2

Vui Hội Đắp Đê - (Hát chèo - Nghĩa Hiệp) - Tốp nam nữ Đội chèo Đài TNVN
http://www.mediafire.com/?5iyxla5amadv551
(Điệu Sử bằng & Lới lơ)

Tiễn Anh Bên Bờ Sông Hậu - (Dân ca Nam Bộ - Vũ Bằng) - Trang Thiên Lý
http://www.mediafire.com/?111s3581cix3o1c
Điệu Xang xừ líu

Mẹ Kể Con Nghe (Dân ca Quan Họ) Thanh Hiếu
http://www.mediafire.com/?gw2dua8ppv47n0p

Cô Gái Tưới Đậu - (Vọng cổ - lời Trần Nam Dân) - Thanh Tuấn - Thanh Kim Huệ
http://www.mediafire.com/?d0mpryvf0sv8zvr

Inh Lả Ơi - (Dân ca Thái) - Thanh Huyền
http://www.mediafire.com/?jo8e3zpjul19ywz

Mưa rơi - (Dân ca Khơ mú lời Tô Ngọc Thanh - Văn Như) - Thu Phương & tốp nữ
http://www.mediafire.com/?mlb9r3hpxpxk6vk

Hát Ru (Dân ca Quan họ) Thanh Huyền
http://www.mediafire.com/?s80cbbodh2dr6d7

Người Ở Đừng Về (Dân ca Quan họ) Thanh HIếu
http://www.mediafire.com/?074eo4di1cf1g6r

Như Mùa Hoa Ban (Dân ca Giáy) Tuyết Thanh
http://www.mediafire.com/?wzxntc0mlwd
(Lời mới)

Quê Hương Dáng Đứng Tầm Cao (Vọng cổ) Thanh Tuấn
http://www.mediafire.com/?wl2vlwtt8xvtapw

Quan Họ Nơi Đảo Xa - (Ca cảnh - Dân ca QH) - Đoàn dân ca QHBN
http://www.mediafire.com/?az7y43spanl47hc

Lời Thương Ta Ngỏ Cùng Nhau - (Dan ca Quan họ) - Xuân Trường & Lan Hương
http://www.mediafire.com/?7lo3bs8904vta7b

Cô Đôi Cam Đường - (Hát văn) - Thanh Ngoan
http://www.mediafire.com/?llxdsdfvfvcs62w

Lý Ngựa Ô - (Dân ca BTT) - Hoàng Thanh
http://www.mediafire.com/?2sbb5ys883moqtu

Ai về Hà Bắc (Hát Chèo) Như Hoa
http://www.mediafire.com/?v0iszpyiw6a76p4

Bàn Tay Con Gái - (Hát cải lương - lời Hồng kỳ) Thuý Đạt
http://www.mediafire.com/?95ry5p173dn47dw
(Điệu Khốc Hoàng Thiên )

Mùa Tằm Bên Sông Đáy - (Hát cải lương lời Đình Chình) - Xuân Vinh
http://www.mediafire.com/?vxaljrmhu3zr7ab
(Điệu Liễu thuận hương)

Cô Giáo Và Đàn Cháu Nhỏ - (Hát cải lương - lời Mạnh Tôn) - Phạm Thanh Hương
http://www.mediafire.com/?t678d5n00h1iegn
(Điệu Thu Hồ)

Chiếc Xuống Cui - (Cải lương- lời Văn Hồng Cẩm) - Minh Vương & Lệ Thuỷ
http://www.mediafire.com/?bp1v48dhdb9pd69

Chiếc Xuống Cui - (Cải lương- lời Văn Hồng Cẩm) - Minh Vương & Lệ Thuỷ (256)
http://www.mediafire.com/?cig9igxm5kg506i

Cháu Nhớ Ngày Về Thăm Quê Ngoại - (Hat cải lương - Tăng Thanh Xoa) - Vương Hà
http://www.mediafire.com/?fa48j1f1e2ydkte

Đường Thêu Tiễn Bạn - (Hát cải lương - Xuân Cung) - Huyền Thanh, Thuý Đạt & Ngọc Chi
http://www.mediafire.com/?qf232cw5cjg66ts

Người Chị Xứ Dừa - (Ca vọng cổ - Thu Vân) - Phương Hồng Thủy
http://www.mediafire.com/?ivkh5cy77ydbdc1
(Điệu Lưu thủy hành vân - Vọng cổ)

Côn Sơn In Dấu Chân Người - (Hát Chèo - Khúc Hà Linh) - Kim Đức & Tốp nữ Đài TNVN
http://www.mediafire.com/?5dvoqxxkqmaa12m
(Điệu Quân Tử Vô Dịch)

Đường Lên Hạnh Phúc - (Hát Chèo - Yên Giang) - Minh Tâm
http://www.mediafire.com/?fctld8pw8djdwjc
(Điệu Quạt Màn)

Lời Ca Từ Đất Mẹ - (Hát Chèo - Xuân Cung) - Minh Tâm
http://www.mediafire.com/?3uvinb8259g8495
(Điệu Đường trường bắn thước)


Bài Ca Cho Con - (Hát văn) Hồng Ngát
http://www.mediafire.com/?p656tm77734tz9b
(Điệu Ru con xa)

Cây Trúc Xinh - (Dân ca Quan họ) - Chí Thân
http://www.mediafire.com/?ak554nry0uarzgy

Ngựa Ô Với Chiến Sĩ Biên Phòng - (Dân ca Nam bộ - Dân Huyền) - Trần Thọ & Tốp nữ
http://www.mediafire.com/?5bq3vlb9a2gy85k
(Điệu Lý ngựa ô )

Chim Kêu Gióng Giả - (Dân ca Quan họ) – Thanh Hiếu
http://www.mediafire.com/?wmjmnrqkzwg

Đi Cấy - (Dân ca Thanh Hóa) – Ngọc Tú
http://www.mediafire.com/?p740eea952bh2dq

Lòng Người Mẹ Huế - (Ca Huế - Mai Từ Linh) - Hồng Lê
http://www.mediafire.com/?2ceaxdy41km3xkm
(Thu âm 1975)

Lý Năm Canh – (Dân ca BTT) – Lài Tâm
http://www.mediafire.com/?n60l217n4g3c06f

Mẹ Ơi Đà Nẵng Sáng Rồi – (Hát Chèo - lời Hồ Tăng Ấn) – Bích Thục
http://www.mediafire.com/?1yl433t7n377tf4
(Thu âm 1975)

Mùa Lại Tiếp Mùa ( Hát Chèo - Thanh Thuỳ) - Minh Tâm
http://www.mediafire.com/?lg2gdjyw62rolxz
(Điệu Luyện năm cung)


Bài Thơ Dâng Mẹ - (Hát xẩm - lời Phùng Văn Đủ) - Thanh Bình
http://www.mediafire.com/?4bvmruu7x5w4m7o

Cau Hà Châu Têm Trầu Xuân Mỹ - (Hát cải lương - Trần Lệ Hằng) - Lệ Thuỷ
http://www.mediafire.com/?pp7mn059iqiihmn

Lý Mười Thương - (Dân ca BTT) - Hoàng Thanh
http://www.mediafire.com/?4r24o6iqlw4jta3

Lý Thượng Du - (Dân ca Khu Năm) - Kim Cúc
http://www.mediafire.com/?34ihb5en7vs0uxw

Mẹ Của Anh - (Hát văn - thơ Xuân Quỳnh) - Hồng Ngát
http://www.mediafire.com/?t260idna7cop4aa

Một Lần Thăm Huế - (Hát văn - lời Duy Yên) – Minh Thu
http://www.mediafire.com/?rh7y4i2r41oz2pb

Mùa Xuân Với Điệu Lý – (Dân ca Nam Bộ) – Thu Trang
http://www.mediafire.com/?nh9xi85r76bcwj7

Nghĩa Nước Tình Nhà - (Dân ca BTT - Nguyễn Văn Cừ) - Lài Tâm
http://www.mediafire.com/?4q8br5jj1jps2j3
Điệu vè & Lý Tình tang

Thoả Nỗi Nhớ Mong – (Dân ca Quan họ) - Ngọc Tú
http://www.mediafire.com/?2cod491s4fqpxo1

Thuyền Chờ Bến Đợi - (Dân ca QHBN - Phạm Công Ngát) - Thanh Nhàn & Đình Sáng
http://www.mediafire.com/?kgfg04l5m3wycmg
(Điệu Tưởng đến gần xa)

Xin Đừng Quên Nhau - (Hát văn - Xuân Hanh) - Hồng Ngát
http://www.mediafire.com/?vu52olo8o69tcwd

Xuân Về Trên Bến Nhà Rồng – (Hát cải lương - lời Khúc Hà Linh) - Kiều Nga
http://www.mediafire.com/?iqyaomgza52i7vv
Mời các bác thay các bản cũ của NSND Như Hoa dưới đây nhé (đầy đủ 11 bài)

http://www.mediafire.com/?0zzqydyjkct


Bài Ca Tuổi Trẻ Thủ Đô - (Hát Văn - lời Trần Quỳnh) - Hồng Ngát
http://www.mediafire.com/?cz6ewhi79m13r94

Điệu Con Sáo - (Dân ca Khơ-me) - Tuyết Hồng, Ngô Vui & Hữu Tuấn
http://www.mediafire.com/?uh3ros2ndebbx72

Hoa Thơm Bướm Lượn - (Dân ca Quan họ) - Quang Hân
http://www.mediafire.com/?klm8c0lar4grq0b

Mừng Đảng Mừng Xuân - (Hát chèo - Nguyễn Trung Nhẫn) - Thanh Tuyết & Tốp nữ Đội chèo Đài TNVN
http://www.mediafire.com/?4zzafjop97jjqzt
Điệu Tứ Quý

Mười Yêu - (Hầu Văn Huế) - Hoàng Thanh
http://www.mediafire.com/?iieoigij2dt

Người Hàng Xóm – (Vè Huế - thơ Nguyễn Bính) – Lài Tâm
http://www.mediafire.com/?c9a6n3joc2b6b1c

Nhắn Gửi - (Dân ca H'mong) - Thuý Đạt
http://www.mediafire.com/?fkxr8ur9ssxako5

Nhớ Mãi Khôn Nguôi – (Dân ca Quan họ) – Thanh Nhàn
http://www.mediafire.com/?7my0uf6a5o3t0dq
(Điệu giã bạn)

Quà Xuân Quê Quan Họ - (Dân ca Quan họ - Đức Miêng) - Thanh Hiếu
http://www.mediafire.com/?5qelfdgaj5yt2zl

Tình Quê - (Hát cải lương - Nguyễn Vượng) - Thuý Đạt
http://www.mediafire.com/?vk3uo9psmp9lsj7
(Điệu Khốc hoàng thiên)


Hà Thành Ba Sáu Phố Phường – (Hát Văn) – Thanh Ngoan & Trung tâm phát triển âm nhạc VN
http://www.mediafire.com/?070rzgy3rwz18o0c

Hội Mùa - (Dân ca QH - Trần Phủ) - Thanh Hiếu
http://www.mediafire.com/?8xz1kxy7t115c5q

Huế Hẹn Ngày Vui – (Dan ca BTT - lời Thi Nguyệt) - Hồng Lê
http://www.mediafire.com/?z8fjh9fr0119268

Nha Trang Thơ Mộng - (Ca Trù - lời Xuân Viên) - Thuý Đạt
http://www.mediafire.com/?vdec203spce54v5
(Điệu Miễu , Hát nói

Qua Cầu Gió Bay – (Dan ca QH) – Quý Thắng
http://www.mediafire.com/?mg4ndqxzpazr4kc

Quê Ta Sáng Mãi Niềm Tin - (Hát Văn - lời Thanh Mạnh) - Hồng Ngát
http://www.mediafire.com/?4duideco91ih6r0

Sử Viết Thêm Dòng - (Hát chèo - lời Xuân Hanh) - Văn Chương & Tốp ca nam nữ
http://www.mediafire.com/?2nby3buu6kc182i
(Điệu Xẩm Xoan)

Ước Mơ Ta Gửi Đất Rừng - (Hát chèo - Thanh Nga) - Minh Tâm & Tốp nữ Đội chèo Đài TNVN
http://www.mediafire.com/?2tp25r6k1z024sj
(Điệu lới lơ & Tam tầng)

Vài nét về nghệ thuật chèo

Vài nét về nghệ thuật chèo :

... Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy
Hội chèo làng Ðặng đi qua ngõ
Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay...
(Mưa Xuân - Nguyễn Bính)

Từ bao đời nay Hát chèo đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn hóa nghệ thuật quen thuộc của người dân Việt Nam, nuôi dưỡng đời sống tinh thần dân tộc bởi cái chất trữ tình đằm thắm sâu sắc. Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian dân tộc chèo là một loại hình sân khấu kịch hát đậm đà tính dân tộc, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của hàng loạt yếu tố: hát, múa, nhạc, kịch mang tính nguyên hợp vô cùng độc đáo. Vùng trung châu và đồng bằng Bắc bộ là cái nôi của chèo, từ cái nôi ấy sau bao nhiêu thăng trầm của lịch sử nghệ thuật chèo ngày càng phát triển và khẳng định được tầm quan trọng trong nền văn hóa dân gian dân tộc.
Có thể nói nghệ thuật chèo mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam, chèo sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự trữ tình. Ðặc biệt hơn là tính tổng hợp của sân khấu chèo từ bản trò, đến đề tài nhân vật với sự "pha âm cách điệu" giữa âm nhạc, hát và múa.


Sân khấu chèo xưa ra đời từ các làng chèo với các múa hội hát. Cứ mỗi độ xuân sang người muôn nơi lại bồi hồi bởi sự thúc giục của trống chèo và những lời ca tiếng hát của nghệ nhân làng chèo. Người xưa có câu "nhất cử động giai điểm vũ" điều đó biểu hiện nét đặc trưng của nghệ thuật chèo là "tính múa", những diễn xuất tinh tế của nghệ nhân chèo đều ở điểm này mà ra. Với đôi bàn tay khéo léo từng cử chỉ, động tác đã toát lên cái "thần" của nhân vật, qua đó thấy được thành công của người diễn. Từ mùa xuân rồi tới mùa thu trong các hội hè đình đám ở khắp vùng đồng bằng Bắc bộ không khi nào thiếu vắng tiếng hát chèo.

Cũng chính vì thế mà chèo mang tính quần chúng và được gọi là loại hình sân khấu của hội hè. Công chúng đam mê chèo bởi khi đến với sân khấu chèo có thể tận hưởng niềm vui từ những tiếng cười châm biếm đả kích sắc và tinh tế. Trong mỗi vở diễn, mỗi tình tiết, mỗi lớp nhân vật của chèo đều có cái hài xen kẽ với cái bi, người xem bao giờ cũng coi trọng những yếu tố đó.


Người xưa thường nói "có tích mới nên trò" điều đó khẳng định tích chuyện là linh hồn của vở diễn. Cũng chính vì vậy mà chèo được đánh giá là loại hình sân khấu kịch hát kể chuyện dân tộc. Ðiều này đã làm nên đặc điểm cơ bản của nghệ thuật chèo cổ.


Không những thế chèo còn thuộc loại sân khấu ước lệ cách điệu, sự khoa trương- tô phóng có tính chọn lọc đã làm nổi bật hơn những góc cạnh đặc trưng của nghệ thuật chèo- những mảng chèo đặc sắc được ra đời từ nhân tố đó. ở thời nào nghệ thuật đều chứng tỏ những nét tương đồng với lối sống của xã hội thời đó. Thời xưa chèo mang đậm dấu vết của những điệu múa dân gian, hàng loạt lễ tiết của phần cúng tế trong các hội làng ở miền bắc Việt Nam. Trong con đường phát triển của nghệ thuật chèo có hình thức tương hợp song song với sự phát triển và sáng tạo. Cá nhân các nghệ sĩ, những nhà nghiên cứu... đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng trong bước đường hoàn thiện thể loại kịch hát dân tộc có tính bác học. Chèo hiện đại (chèo cải biên) đã khẳng định được vị thế của mình với những vở diễn và hình tượng con người mới nhờ sự bảo tồn và phát huy truyền thống của nghệ thuật chèo cổ, xứng đáng tiêu biểu cho nghệ thuật sân khấu dân tộc. Trải qua biết bao thế hệ, đến hôm nay những người con đất Việt - cả những người đang sống trên đất nước Việt Nam và những kiều bào ở xa tổ quốc, luôn coi nghệ thuật chèo là một "viên ngọc long lanh sắc màu" trong kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian dân tộc.
Bài viết này tìm hiểu về nghệ thuật chèo với những nét độc đáo, tiêu biểu: quá trình hình thành và phát triển, đặc điểm cơ bản của chèo cổ-chèo hiện đại, trong đó không thể thiếu một số gương mặt của các nghệ sĩ "làng chèo". Hy vọng rằng, đây sẽ là một tư liệu cần thiết và bổ ích cho những ai yêu mến tiếng hát chèo và nền văn hoá nghệ thuật dân tộc Việt Nam.


Nguồn gốc và thời điểm hình thành chèo Việt Nam có cả một kho tàng sân khấu cổ truyền gồm nhiều kịch chủng như: múa rối, tuồng, chèo; mà mỗi loại lại có những đặc điểm nghệ thuật độc đáo, sinh sắc, không thể lẫn lộn. Nẩy sinh và lớn lên trong xã hội nông nghiệp lạc hậu, chúng tiến triển tương ứng với trình độ và nhu cầu nhiều mặt của mỗi thời kỳ lịch sử, mặc nhiên trong những món ăn tinh thần không thể thiếu của đông đảo con dân đất Việt, trong đó sân khấu chèo giữ một vị trí hết sức quan trọng. Ðể chèo có được vị thế như ngày hôm nay, chúng ta cùng nhau quay trở lại nguồn gốc của nó.

1. Những ý kiến đã phát biểu về nguồn gốc và sự hình thành chèo

Có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc và sự hình thành của chèo, tuy nhiên có thể tóm tắt một số ý kiến đã phát biểu từ trước đến nay, về nguồn gốc và thời điểm xuất hiện của Chèo như sau: - Chèo có nguồn gốc ngoại lai, bắt đầu từ sự kiện quân ta cầm giữ nghệ nhân Lý Nguyên Cát ở trận Tây Kết; - Chèo khởi lên từ Trịnh Trọng Tử cho quân hát khúc Long ngân đang khi đưa tang vua Trần Nhân Tông: - Danh xưng chèo do ghi Nôm, dịch chữ Hán ra; hoặc từ chữ Trào (trào lộng) mà ra; hoặc chữ chèo do phát âm sai mà thành chèo; do phiên Nôm, dịch Hán đồng dạng những chữ chào (chào mừng), chữ chầu (chầu thần thánh), chữ triều (triều đình, đọc thành trào đình)... - Chèo chỉ động tác chèo thuyền, đề nói nguồn gốc chèo xuất phát từ trò tang lễ và lao động; - Chèo là hình thức sân khấu thuần tuý dân tộc, bắt nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian phong phú lâu đời Việt Nam; - Về thời điểm thành hình, có những ý kiến cho chèo có ở nước ta từ thời tiền sử, thế kỷ thứ IV trước Công nguyên đến thế kỷ thứ I sau Công nguyên; hoặc thế kỷ thứ X (thời nhà Ðinh); hoặc thế kỷ XIV (cuối nhà Trần);...

2. Chúng tôi không tán thành nhóm ý kiến cho rằng chèo bắt đầu thành hình từ khi có nghệ nhân Trung Quốc Lý Nguyên Cát (hay Hứa Tông Ðạo), hoặc bất cứ nguồn gốc ngoại lai nào Dựa trên những gì ghi khắc trong sử sách, bi ký qua các đời Ðinh, Tiền Lê, Lý đến cuối Trần, đã có thể rút ra mấy nhận xét. Một. Các hình thái hát (kết hợp) múa, các trò hề riễu đã tồn tại ở xã hội ta khá phong phú và ngày một phát triển: - Ðời Ðinh tương truyền có Phạm Thị Chân, Ðào Văn Xó - Ðời Lý với tầng lớp tăng lữ đông đảo có thế lực, kết hợp lại qua với quý tộc cũ mới, thêm Nho giáo, rồi qua chiến tranh giữ nước mà chín muồi dần tinh thần dân tộc đưa tới ra đời chữ Nôm với sự liên kết giữa tăng lữ Từ Ðạo Hạnh, nho sĩ Mai Sinh, nghệ nhân Sai ất (hay Phan Khất?). Và rằng phần lớn các vua Lý đều thích múa hát với Ðào Thị, Ðỗ Anh Vũ... - Ðời Trần, Nho giáo ngày một lấn át Phật Giáo, Ðạo Giáo, nẩy sinh tầng lớp nho sỹ vừa sử dụng tốt chữ Hán, vừa mầy mò xây dựng chữ Nôm, vừa chan hoà với văn hoá dân gian, như Chu Văn An, Nguyễn Thuyên, Dư Nhuận Chi, Nguyễn Sỹ Cố, Trần Nhật Duật,... Hai. Sự xuất hiện những mảnh trò có tích đơn giản, những nghệ nhân vươn lên chuyên nghiệp nhiều loại, như giáp (kép), đào, lão, mụ, hề, những trò nhại (về hào phú, trưởng giả), những bài giáo (như giáo trống, giáo hương,...) để từ đấy tổ chức Giáo phường, tập hợp người nghề, lần đầu tiên cho nhà nước quản lý, với những phường trò, phường hát,... Ba. Trong bối cảnh ấy, một Tây Vương Mẫu hiến bàn đào hát tiếng Trung Quốc, ăn vận kiểu Trung Quốc, biểu diễn với dàn nhạc Trung Quốc, không thể xoá nhoà tất cả, để có thể coi là khởi điểm cho sự ra đời một kịch chủng thuần tuý dân tộc như Chèo. Những cung cách tiến hành biểu diễn tiết mục ấy, với sắc thái và âm hưởng như sử sách miêu tả, xét các mặt nghệ thuật hát, múa, diễn kỹ, không ai có thể nhận thấy là chèo. Có chăng, với số điểm mới trong tiết mục (như quần áo lại kiểu, âm nhạc lạ tai, sân khấu hẳn hoi, nghệ nhân ra diễn, lại vào, lại ra diễn...) sẽ góp phần thúc đẩy nghệ thuật bản địa thích ứng nhanh hơn với tình hình và yêu cầu thưởng thức của nhân dân đương thời.

3. Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn cho rằng, chèo bắt nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian, dân tộc, với sự đóng góp quan trọng của giới trí thức bình dân và quý tộc, từng tồn tại lâu đời trên đất nước Việt Nam, đúng ra là vùng trung châu và đồng bằng miền Bắc.


Khi nói chèo bắt nguồn từ kho tàng dân ca cổ truyền Bắc Bộ, lưu ý rằng, không phải loại dân ca nào cũng có thể phát triển thành chèo, mà chỉ những loại hát nói đậm đặc chất tự sự mới tiềm ẩn khả năng đó, chí ít cũng có số hình thái mang âm hưởng gợi nhắc đến chèo. Tất nhiên, những nghệ nhân chèo lành nghề có thể "chèo - hoá" không mấy khó khăn bất cứ làn điệu hoặc bài dân ca nào. Có vẻ như cổ xưa, mấy loại dân ca đồng bằng miền Bắc, như Hát đúm, Hát ví, Hát trống quân... với cấu trúc giai điệu ngắn gọn thẳng đuột, phụ thuộc vào ngữ điệu, tiết nhịp câu dân dao 6/8, thêm dăm ba tiếng đệm lót vào đầu, chen giữa hoặc vào cuối cho thành về trống vế mái. Về sau, tuỳ địa phương, tuỳ người hát, chúng có chuyển hoá chút ít hoặc thêm chữ để thành những câu thất tự, bát tự, cửu tự hoặc thêm nội dung làm câu hát dài ra; hoặc thêm đảo nhịp, nghịch nhịp cho câu hát thêm vui nhộn; hoặc gia tăng loại câu đố đó thêm lề lối các loại dân ca khác, đặt vào "giọng vặt", làm buổi hát là sự tập hợp sắc màu cho "xôm trò" hơn là một cách phát triển nghệ thuật. Những loại dân ca cổ hơn thì qua lề thói sinh hoạt và tiến trình thực hiện, đủ nói sự phát triển từng thời kỳ với số hiện tượng nghệ thuật khá gần gũi với chèo. Như Hát Xoan (Phú Thọ) mà các hội làng mấy huyện Phù Ninh, Lâm Thao, Tam Nông, Ðoan Hùng, Hạc Trì hàng năm mở đầu cầu thịnh đầu xuân, đều đón Phường Xoan về đình hát thờ và vui chơi. Việc Phường Xoan đi hát các làng không phải vì kế sinh nhai, mà do ràng buộc về tập tục "nước nghĩa" với nhau. Các buổi hát xoan thường bắt đầu từ chập tối. Khi hát, đào thường đội khăn nhung, xống láng, áo the thâm, thắt lưng đen, có khi bao xanh hoặc hồng; kép thì khăn lượt hoặc khăn xếp, áo the thâm, quần trắng, cổ quàng giải khăn nhiễu điều. Sau hồi trống dạo, Trùm phường cùng ông Chủ tế hội làng ra trước hương án cất câu hát chúc (kiểu đọc sớ). Dứt tiếng, một kép trẻ đeo trước bụng chiếc trống nhỡ, vừa hát vừa nhún nhẩy, miệng Giáo trống, Giáo pháo. Rồi bốn đào xếp hàng ngang, tay càm quạt khuỳnh ra trước mặt vừa hát Thơ nhang vừa làm điệu bộ câu "Tiến nhang lên, lùi nhang xuống" và bắt vào Ðóng đám, chấm dứt 4 câu "vặt" mở đầu, để chính thức vào hát Quả cách (gọi tắt là hát cách), theo trật tự quy định từ quả 1 đến quả 14 (như Kiều giang cách, Nhàn ngâm cách, Tùng mai cách, Xuân thời cách, Chèo thuyền cách, Tứ mùa cách,...). Hát hết các quả lại chuyển sang hát các dọng "vặt", (như Bợm giá, Bỏ bộ, Xin hoa, Bắt cá, Hát phú,...). Xem chừng đã hòm hòm, ông Trùm và ông Chủ tế cất câu hát giã kết thúc đêm hát. Trong bài Phú Năm canh thấy có những câu giống in mấy câu trong vở chèo Quan Âm, như: Bây giờ hồ sang trống canh một, Chim bay về chân núi Lịch San, Ve gợi sầu nhắn nhủ đê đàn, Sông lai láng, buồn về góc bể.... Và còn không ít câu gợi nhắc văn vở Lưu Bình Dương Lễ.... Hay như Hát dậm (Hà Nam cũ) mà hàng năm, làng Quyến Sơn (Kim Bảng) mở hội để tưởng vọng công tích Lý Thường Kiệt đánh giặc Chiêm thuở nào, thì Phường dậm lại tụ họp nhau tập dượt hàng tháng trước. Hát dậm cũng nằm trong phạm trù hát tờ và vui chơi, có những hình thái diễn xuất không mấy khác Hát xoan, chẳng những thế, còn gây cảm giác "cổ" hơn. Nằm trong các sinh hoạt dân ca cổ, như Hát cửa đình, hát quan họ, hát dậm,... thường thấy đưa vào vô số giọng "vặt" mang tên hát bỏ bộ, tức là hát có điệu bộ, mà nhiều khi thực chất là những trò diễn giản đơn, hồn nhiên, ở mức hoạt cảnh và nếu thêm tích thì còn sơ lược, có tính chất minh hoạ. Nhưng thú vị thay, chúng lại mang những gì gần gũi nhau, trước hết về sự hài hước dung tục, anh em với hề chèo. Song xét mặt ca nhạc, thì gần gũi với hát chèo hơn cả có lẽ là hát xẩm, loại nghệ thuật "đặc biệt" của lớp người mù loà có năng khiếu văn nghệ, mà dân gian gọi là xẩm. Bất chấp mọi điều kiện hết sức khó khăn, xẩm là biết tổ chức nhau lại thành Làng, Phường hoặc Hội, có ông (bà) Trùm (do làng bầu) và số nghệ nhân giỏi nghề có uy tín, trông coi cắt đặt công việc làm nghề, hàng năm có họp bàn xem xét mọi mặt, bầu người cầm đầu, giải quyết các vụ việc tranh chấp, dạy dỗ bọn trẻ... Thành ra, hát xẩm từ yêu cầu của khách thưởng thức đòi người nghề phải thể hiện nội dung ngày một mở rộng (câu hát dài hơi hơn, tích chuyện đi sâu hơn, nhân vật nhiều hơn,...), nên mặc dầu ở tình cảnh mù loà, ngồi một chỗ vừa hát vừa đàn và làm điệu bộ, nó cũng đã gia tăng làn điệu với sắc thái nhiều đến kết cấu làn điệu của hát chèo. Dĩ nhiên, có thể nghĩ, là hát xẩm ra đời trước khi có hát chèo, là một trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát chèo; hoặc ngược lại, hát xẩm chỉ là bản sao vụng về của hát chèo trong điều kiện và hoàn cảnh rất ư hạn chế của lớp người tật nguyền; hoặc đây là mối liên quan ruột rà tất yếu không ai chối cãi giữa hai loại hình, bởi chính nghệ nhân xẩm xếp Hát xẩm và Chèo cùng loại trung ca, trong khi Tuồng vào loại võ ca, Ca trù vào loại văn ca.


Những điều vừa trình bày qua thực tế nghệ thuật của một phần kho tàng hát múa dân gian vùng trung chân và đồng bằng miền Bắc đã thấy chúng có những tố chất khả dĩ dẫn đến sự hình thành hoặc có ảnh hưởng qua lại đậm đặc hay nhẹ nhõm tới nghệ thuật chèo (cổ). Ðã nói chèo bắt nguồn từ kho tàng dân ca, dân vũ, dân nhạc và trò diễn dân gian, bao gồm những trò nằm trong phạm trù tín ngưỡng, những trò trình diện, trình nghề luôn thấy trong các hội làng, mà nó cấu thành ngôn ngữ nghệ thuật, để thể hiện một kịch bản với vở diễn mang sắc thái hứa hẹn phong cách một loại hình cao hơn, hay nói cho đúng, là tạo dựng được số hình ảnh có tính cách nói lên đức độ, với nghệ thuật thể hiện phức tạp tinh tế hơn.


Bài thơ về Tứ phủ : MẪU DẬY HỌ PHẠM

Tác giả : Phạm Văn Hiển 

Họ Phạm nghe lệnh Mẹ truyền
Dắt con đi đến đẻ chuyên tâm làm
Tâm con bối rối ngổn ngang
Việc đời việc Thánh con làm sao đây.
Bệnh tật nó thường quấy rầy
Làm con thối trí dầu đầy hoài nghi
Mẹ thương dẫn dắt con đi
Tìm đường khai sáng đường đi cứu đời.
Nhân từ sẵn có trong người
Chữ tâm chữ đức sáng ngời như gương
Mẹ thương cuộc sống đời thường
Vất vả lăn lộn thương trường nhiều khi.
Tính con cũng rất hiếu kỳ
Mắt nhìn tay thấy chân đi tỏ tường
Có lúc con lại làm gương
Vạch đường dẫn lối đưa đường chúng sinh.
Tâm linh là chỗ chân tình
Giám bỏ cái xấu hiển linh tỏ tường
Từ nay con phải làm gương
Trau dồi tâm trí dẫn đường chúng sinh.
Tu luyện Mẹ sẽ hiển linh
Hít đều thở nhẹ thấu tình thế gian
Luyện tập thì phải gian nan
Tập sao cho trí cho gan vững bền.
Tập sao cho đứng thẳng lên
Giải thân hết nghiệp xứng tên mẹ truyền
Đẻ ra con đã có duyên
Được mẹ truyền bảo đặt liền Hiển linh.
Nửa đời con thấy chênh vênh
Thuyền chưa cập bến lênh đênh giữa dòng
Sang năm con khỏi ngóng trông
Mẹ dắt con khỏi lông bông đợi chờ.
Việc dương con thấy bất ngờ
Việc con chờ đợi đến giờ thành công
Mẹ mong con hiểu cho thông
Mỗi người căn số đừng mong ai tường.
Yên tâm mẹ sẽ làm gương
Hào quang Mẹ chiếu thẳng đường con đi
Thiên Đình đã chấm đã ghi
Cử thầy dẫn dắt đường đi không lầm.
Thầy con ở lại trong tâm
Muốn hỏi muốn xét phát thầm thầy nghe
Cứng lên đừng có e dè
Mẹ Thiên ở cạnh đừng e ngại ngùng.
Vài lời Mẹ bảo tương phùng
Cho con vững trí hào hùng bước chân
Từ nay con lấy cái tâm
Trụ xoay ngang dọc cái thân an nhàn.

Điển cố trong chầu văn



Hai chữ "Hoàng lương" là chỉ hạt kê. Ý của câu thành ngữ này chỉ cuộc đời như giấc mộng, không có thực. Tương tự như mộng kê vàng, mộng Lư sinh, ....

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Chẩm trung ký" của Thẩm Ký Tế triều nhà Đường.

Truyện rằng, ngày xưa có một chàng thư sinh nghèo họ Lư. Một hôm, chàng vào nghỉ trong một nhà trọ ở Hàm Đan thì tình cờ gặp đạo sĩ Lã Ông, chàng không ngớt lời than phiền với đạo sĩ về cuộc đời nghèo khổ của mình. Đạo sĩ Lã Ông nghe vậy bèn rút một chiếc gối từ ống tay áo ra nói với thư sinh rằng: "Anh hãy gối đầu lên chiếc gối này thì mọi việc sẽ được như ý cả ". Bấy giờ, người chủ quán đang bắc nồi cháo kê, còn thư sinh do vất vả đường trường, đã nằm gối đầu lên chiếc gối của Lã Ông ngủ thiếp đi.

Thư sinh ngủ được một lúc thì nằm mơ mình cưới được một cô vợ họ Thôi rất xinh đẹp. Vợ chàng tuy là con gái cưng của một gia đình giàu có, nhưng lại chăm chỉ và khéo tay, nàng đã giúp chồng thuận lợi trên bước đường công danh và có với nhau mấy mụn con. Về sau các con khôn lớn, ai nấy đều có cuộc sống khá giả, ấm cúng, thư sinh lại có thêm cháu nội cháu ngoại, chàng sống cuộc đời nhàn nhã trong gia đình đến hơn 80 tuổi rồi qua đời.
Khi chàng thư sinh tỉnh giấc, thấy mình vẫn đang ở trong căn nhà trọ nhỏ hẹp, sự vinh hoa phú quý vừa rồi chẳng qua chỉ là một giấc mộng. Nồi cháo kê của chủ quán bắc trên bếp vẫn còn chưa chín. Lư Sinh bàng hoàng tự hỏi: "Há việc đó là huyễn mộng ư ?" Lã ông mới nói: "Việc đời thì cũng như huyễn mộng đó mà.


HOÀNG LƯƠNG MỘNG
Sáng tác: Phúc Yên

Hoàng lương nhất mộng
Ví cuộc đời tựa giống giấc mơ
Lúc thanh nhàn ngẫm chuyện xa xưa
Chàng hàn sĩ họ Lư thủa nọ
Gặp một buổi dừng chân quán trọ
Duyên tình cờ gặp đạo sĩ Lã Ông
Chàng Lư than cuộc sống khổ cùng
Ngẫm áo vải thời lòng chán nản
Lã đạo sĩ bảo chàng chớ nản
Đưa cho chàng chiếc gối trong tay
Ngỏ lời rằng phú quý thỏa hay
Một giấc mộng thời tày ước nguyện
Chàng nhận gối mắt nhìn quyến luyến
Lão chủ nhà đương nấu nồi kê
Mệt vì lòng đánh giấc mệt mê
Thời tỉnh lại bước về chốn cũ
Qua ngõ hạnh vườn đào cổ thụ
Thấy một nàng thiếu nữ họ Thôi
Ấy duyên xe cũng tại ông trời
Duyên cá nước kết đôi hạnh phúc
Tình chồng vợ trong ngoài nhất mực
Nàng đảm đang giúp sức tài trai
Đợi đến kì tỏ sức tỏ tài
Khoa ứng thí Lư thời nhất bảng
Đường sự nghiệp càng thêm xán lạn
Cảnh thanh nhàn lan quế hây hây
Cháu cùng con hiếu thảo sum vầy
Cảnh phú quý tràn đầy lạc thú
Có chữ phúc mãn đường chính chủ
Chữ thọ thêm lộc phủ sắc xuân
Cảnh vinh hoa đến ngoại bát tuần
Duyên đã mãn cõi trần từ tạ
Cháu cùng con lệ tuôn xối xả
Lo cho người yên mả yên mồ
Chợt giật mình bừng tỉnh giấc mơ
Hoàng lương mộng nồi kê vàng chửa chín
Lư bỗng hỏi hay chăng mộng huyễn
Ô cuộc đời cũng giống chuyện chiêm bao
Mơ màng phú quý làm sao?

bài viết : Phúc yên

Về bài thơ lên Đồng của Cụ Tú Xương

Tú Xương đã viết 1 bài thơ “ Lên đồng ” :


Khen ai khéo vẽ sự lên đồng
Một lúc lên ngay sáu bảy ông
Sát quỉ, ông dùng thanh kiếm …gỗ,
Ra oai, bà giắt cái …khăn hồng.
Cô giương tay ấn, tan tành núi,
Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông.
Đồng giỏi sao đồng không giúp nước ?
Hay là đồng sợ súng thần công ?

Phản hồi bài thơ của Tú Xương :


Chẳng ai vẽ được sự lên đồng
Năm tòa Quan Lớn gọi Tôn Ông
Sát quỉ, Tôn Ông dùng thanh kiếm Thánh
Ra oai, Chầu Bà Chiếu Hào Quang.
Cô giương tay ấn, ban Gia lộc ,
Cậu chỉ ngọn cờ trăm nhà vui .
Đồng giỏi nhưng không thể giúp nước ?
Vì Đồng còn dở việc cứu dân!!

gửi cụ Tú Xương


Thiên sinh tạo hoá phép ảnh đồng
Hội đồng quan lớn hiệu tôn ông
sát quỷ hô thần thanh kiếm thánh
ra uy tạo gió phép hô phong
Cô ra tay cứu bao người sống
cậu ứng phép thần đục hoá trong
ai bảo là đồng khônggiúp nước
âm phù dương trợ chẳng kể công

Chúa Ba Nàng , Bà là ai ?

Hôm qua mình đi lễ tại Đền Công đồng bắc lệ,được nghe các bác quản lý đền và Bác thầy cúng tại đền có nói về Chúa ba nàng tại Bắc Giang như sau:

Thời kỳ chiến tranh biên giới 1979,nhân dân các tỉnh phía Bắc nước ta đi sơ tán.Các đền phủ thuộc tỉnh Lạng sơn cũng sơ tán,trong đó có Đền Quan Giám sát,vị thủ nhanh đồng đền có rước Tượng Ngài về một cái hang tại làng có tên là Ba Nàng cho tiện việc sáng chiêu chiều mộ,hương khói.Lúc đó ban thờ cũng rất chi là sơ sài,tại ngôi làng đó có 3 chị em gái (theo như bác thầy cúng kể) có dị tật bẩm sinh,vì không muốn ăn bám cha mẹ nên 3 cô gái đó quyên sinh .Cái hang mà có tượng của vị đồng đền kia hàng ngày mọi người đi qua đi lại mỗi người thắp nén hương nên cũng bắt đầu đông đông.Và từ đó một câu chuyện được vị thủ nhang kia kết hợp với 3 chị em nhà nọ quyên sinh nên khoảng hơn chục năm gần đây mới xuất hiện nên ngôi đền Ba Nàng cùng tên với Ngôi làng ở đó.

Sau đó còn xuất hiện thêm 1 ngôi đền nữa là Đền Cô Chí Mìu.
Thầy tôi cũng xác nhận là ngày trước Ông có đi lễ tại vùng này (cách đây khoảng hơn 20 năm)không nghe thấy tên 2 ngôi đền trên.

Vậy kính mong các anh chị em và các cháu ai có thông tin gì xin được chỉ giáo.Cám ơn nhiều.
(ở đây là mình được nghe lỏm câu chuyện trên thôi nếu có gì không đúng mong mọi người hoan hỷ cho).

Trình tự các giá hầu trong 1 vấn hầu đồng tứ phủ



Trình tự các giá trong một vấn hầu

1.Thỉnh Tam Tòa Quốc Mẫu
2 .Nhà Trần

- Đức Ông Trần Triều hiển thánh Nhân Võ Hưng Đạo Đại Vương

- Tứ vị Vương Tử
-Hưng Vũ Vương
-Hưng Hiến Vương
-Hưng Nhượng Vương
-Hưng Trí Vương
-Vương Cô Đệ Nhị
-Quyên Thanh Công Chúa
- Đại Hoàng Công Chúa
- Vương Tể Phạm Ngũ Lão
-  Đức Ông Tả Hữu
- Ông Yết Kiêu
- Ông Dã Tượng

- Cô Bé Cửa Suốt
- Cậu Bé Cửa Đông

3. Hội đồng Chúa

* Tam Vị Chúa Mường(Tam Tòa Chúa Bói)
- Chúa Tây Thiên Đệ Nhất
- Chúa Nguyệt Hồ Đệ Nhị
- Chúa Lâm Thao Đệ Tam
* Chúa Thác Bờ

* Chúa Long Giao

* Chúa Cà Fê
* Chúa Năm Phương

*Chúa Mọi

4. Ngũ Vị Tôn Ông

- Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên

- Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát

- Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

- Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai

- Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

* Quan Điều Thất

* Quan Triệu Tường

5. Thập Nhị Chầu bà

- Chầu Đệ Nhất

- Chầu Đệ Nhị

- Chầu Đệ Tam

-Chầu Đệ Tứ

- Chầu Năm Suối Lân

-Chầu Lục Cung Nương

- Chầu Bảy Kim Giao

- Chầu Bát Nàn Tiên La

- Chầu Cửu Tỉnh Sòng Sơn

- Chầu Mười Đồng Mỏ

- Chầu Bé Bắc Lệ

6. Tứ Phủ Ông Hoàng

- Ông Hoàng Cả Quận Vân

-Ông Hoàng Đôi Người Mán

-Ông Hoàng Bơ Thoải Cung

- Ông Hoàng Tư

- Ông Hoàng Năm

- Ông Hoàng Lục Thanh Hà

- Ông Hoàng Bảy Bảo Hà

- Ông Hoàng Bát Quốc (Quan Bắc Quốc)

- Ông Hoàng Chín Cờn Môn

- Ông Hoàng Mười Nghệ An

7. Tứ Phủ Tiên Cô

- Cô Cả Thượng Thiên
- Cô Đôi Thượng Ngàn
- Cô Bơ Bông
- Cô Bơ Tây Hồ
- Cô Tư Ỷ La
- Cô Năm Suối Lân
- Cô Sáu Lục Cung
- Cô Bảy Kim Giao
- Cô Tám Đồi Chè
- Cô Chín Thượng Ngàn
- Cô Chín Giếng (Cô Chín Sòng)
-Cô Mười Mỏ Ba
-Cô Bé Đông Cuông
- Cô Bé Tân An
-Cô Bé Núi Dùm
- Cô Bé Minh Lương
- Cô Bé Mỏ Than
-Cô Bé Suối Ngang
-Cô Bé Thác Bờ
- Cô Bé Bản Đền
- Cô Đôi Cam Đường

8.Tứ Phủ Thánh Cậu

- Cậu Hoàng Cả Phủ Giầy

- Cậu Hoàng Cả Sòng Sơn

- Cậu Hoàng Đôi

- Cậu Hoàng Bơ

-Cậu Hoàng Tư

-Cậu Hoàng Năm

- Cậu Hoàng Bé Đồi Ngang

- Cậu Bén Bản Đền

9. Quan Hạ Ban

- Hoàng Hổ Thần Tướng

-Thanh Hổ Thần Tướng

-Xích Hổ thần Tướng

-Bạch Hổ Thần Tướng

-Hắc Hổ Thần Tướng

-Thanh Xà Đại Tướng

-Bạch Xà Đại Tướng

18 June 2012

Chầu Bà Đệ Nhị







Chầu Đệ Nhị là hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn , vị Thánh thống soái trong các hàng Chầu , cai quản vùng non nước , sơn cước :

Vốn dòng công chúa thiên thai
Giáng về hạ giới quản cai Thượng Ngàn
Quản cai các lũng cùng làng
Sơn tinh cầm thú hổ lang khấu đầu ..."

Tương truyền bà là con gái của một gia đình người Mán ở Đông Cuông , tỉnh Yên bái , Bà sinh ra lúc bố mẹ đã già , ngoài 50 tuổi . Từ nhỏ bà chỉ làm việc thiện , không lấy chồng . Sau khi mất bà hiển linh luôn cứu guyos dân lành nên nhiều nơi lập đền thờ cúng , không ai ngồi đồng mà Bà không giáng . Khi giáng bà mặc sắc phục người Mán , màu xanh , đặc trưng cho nhạc Phủ

Trong bản Bách thần lục , thần tích của Chầu bà Đệ Nhị đồng nhất với thần tích của Thánh Mẫu Thượng Ngàn ở vùng Bắc Lệ - Lạng Sơn . Đó chính là công chúa La Bình con gái của Sơn tinh , được phong là Thượng Ngàn Công Chúa , cai quản 81 cửa rừng cõi Nam Giao



Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa[2]. na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất bà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ, Ta Bà Ha.

Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng . Hàng Ông Hoàng gồm:

01- Ông Hoàng Cả ( Thượng Thiên )
02- Ông Hoàng Đôi Thượng Ngàn ( Người Nùng )
05- Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc
06- Ông Hoàng Tư
07- Ông Hoàng Năm
08- Ông Hoàng Bảy ( Bảo Hà )
09- Ông Hoàng Bát

Tứ phủ Thánh Cô

Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
3 - Cô Tư Ỷ La
7 - Cô Bảy Kim Giao
10 - Cô Mười mỏ ba
11 - Cô bé Thượng ngàn ( cô bé Đông Cuông /Cô Bé Suối Ngang ( Hữu lũng ) / Cô bé Đèo Kẻng ( Thất Khê ) / Cô Bé Tân An ( Lào cai ) / Cô bé Cây xanh ( Bắc Giang ) / Cô bé Nguyệt hồ ( Bắc Giang ) / Cô bé Minh Lương ( Tuyên Quang ) / Cô bé Cây xanh ( Tuyên Quang ) / cô bé Thác Bờ ( hòa Bình ) / Cô bé Thoải phủ

Bánh Xưa ( Hà Nội )

Bánh Xưa ( Hà Nội )
Cung cấp Bánh khảo - bánh in huế truyền thống / 0965111991