17 September 2018

Ghi chép về cống vật của nước ta thời thuộc Minh trong Minh thực lục


[Ghi chép về cống vật của nước ta thời thuộc Minh trong Minh thực lục (*)] - Kỳ 1: Quạt.

Thời kỳ thuộc Minh kéo dài tròn 20 năm, bắt đầu từ năm 1407 - khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt vào năm 1427 - khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cõi.

Đây được coi là một giai đoạn đen tối trong quốc sử, cùng với việc mất đi nền độc lập thì nước ta còn phải gánh chịu ách áp bức bóc lột nặng nề của nhà Minh, với những thảm cảnh “đánh thuế nặng, bóc lột nhiều, dân không lấy gì mà sống được” như trong “Đại Việt sử ký toàn thư” chép lại.

Tuy nhiên ở một góc độ khác, việc khai thác sử liệu nhà Minh ghi chép về nước ta vào giai đoạn này, mà đối tượng chúng tôi khai thác ở đây là bộ “Minh thực lục” lại đem đến nhiều thông tin hữu ích, góp phần bổ khuyết cho sử liệu của Việt Nam.

Việc dâng cống phẩm, vốn là một thông lệ của các quốc gia có mối quan hệ ngoại giao với các triều đại Trung Quốc nói chung và của nước ta nói riêng. Trong giai đoạn độc lập, các cống phẩm ngoại giao của nước ta tặng cho phương Bắc thường chỉ mang tính hình thức, có số lượng không lớn (so với quy mô một quốc gia) và không thường xuyên phải tiến cống. Ngoài ra, theo nghi thức ngoại giao, sau khi nhận được cống phẩm, thì “Thiên Triều” cũng phải đáp lễ lại bằng các tặng phẩm ngoại giao.

Nhưng từ năm 1407,  nước ta bị sáp nhập vào lãnh thổ nhà Minh, đổi tên thành quận Giao Chỉ, lúc này viếc cống sản vật từ nghi lễ ngoại giao đổi thành nghĩa vụ bắt buộc của quận huyện địa phương với trung ương, các sản vật quý nhất đều được khai thác với số lượng lớn đem tiến cống.

“Minh thực lục” ghi chép tổng cộng 17 lần cống tiến sản vật của quận Giao Chỉ dưới thời Minh thuộc, kéo dài 8 năm, bắt đầu từ niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 14 (1417) tới niên hiệu Hồng Hi nguyên niên (1425).

Từ năm 1426, khởi nghĩa Lam Sơn trên đà thắng lợi, hệ thống cai trị của nhà Minh tê liệt, việc tiến cống bị hoãn lại. Năm 1427, khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi, quân Minh phải rút về nước. Năm 1431, niên hiệu Tuyên Đức thứ 6, triều đình Minh Tuyên Tông phong vương cho Lê Lợi, giao “quyền trông coi công việc nước An Nam”, thừa nhận chính thức nền độc lập của nước ta. Từ đây cống phẩm của Đại Việt đưa sang nhà Minh quay lại là cống phẩm ngoại giao, mang tính chất hình thức. Vì thế, Minh thực lục khi nhắc đến số cống phẩm này, thường chỉ ghi chép chung chung đại để như “cống trầm hương, ngà voi, đồ dùng vàng, bạc, sản vật địa phương”.

Loạt bài này sẽ chỉ đề cập tới những loại cống vật có số lượng nhiểu nhất và được Minh thực lục thống kê chính xác trong số 17 lần cống tiến của Giao Chỉ bao gồm lụa sống, sơn, tô mộc, thúy vũ và quạt. Kỳ đầu tiên chúng tôi sẽ nói tới sản vật có số lượng cống tiến nhiều nhất đó là quạt.

Thống kê cụ thể về số lượng quạt được cống phẩm như sau:

1)Tháng Chạp niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 14 (12/1/1417): Giao Chỉ tiến một vạn quạt giấy. ([1]tr 1975)

2)Tháng Chạp niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 15 (1/2/1418): Giao Chỉ cống một vạn quạt. ([1]tr 2052)

3)Tháng Chạp niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 16 (12/1/1419): Giao Chỉ cống 1 vạn quạt giấy. ([1]tr 2117)

4)Ngày 29 tháng Chạp niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 17 (14/1/1420): Cống  1 vạn quạt. ([1]tr 2182 – 2183)

5)Tháng Chạp niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 18 (1/2/1421): 1 vạn quạt. ([1]tr 2245)

6)Tháng Chạp niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 19 (1/2/1422): Giao Chỉ cống lên 7535 quạt giấy. ([1]tr 2301)

7)Tháng Chạp niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 20 (12/1422 – 1/1423): Giao Chỉ cống 8430 quạt. ([1]tr 2364)

8)Tháng Chạp niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 21 (1/1424): Giao Chỉ cống lên một vạn chiếc quạt. ([1]tr 2421 – 2422)

- Quạt (Nguyên văn “phiến” 扇 hoặc “chỉ phiến” 紙扇, cá phiến個扇). Tổng cộng 75.962 chiếc, như đã nói ở trên: quạt là cống phẩm có số lượng nhiều nhất trong số các cống phẩm của quận Giao Chỉ.

Phương Nam vốn nằm trong vùng nhiệt đới với số ngày nắng trong năm rất dài, nên người Việt đã có tập tục dùng quạt lâu đời, theo đó trình độ chế tác các loại quạt của người việt cũng rất cao.

Thời Lý, Chu Khứ Phi trong “Lĩnh ngoại đại đáp” từng viết “có kẻ cài trầm sắt,có kẻ đi dép da, tay cầm quạt lông hạc, đầu đội nón hình ốc…” ([2]tr 59 – 60)

Năm 1621 Cristophoro Borri cũng miêu tả người Việt ở Đàng Trong “Cả đàn ông đàn bà đều ưa cầm quạt rất giống như ở châu Âu. Họ cầm là cầm lấy lệ thôi”. ([3]tr 56)

Vì vậy không khó lí giải về số lượng lớn quạt mà quận Giao Chỉ phải cống. Điều này, ở góc độ nào đó cho thấy quạt giấy của nước ta là sản phẩm thủ công mỹ nghệ có chất lượng và nổi tiếng đương thời, cũng như có một lượng lớn nhu cầu về loại mặt hàng này ở phương Bắc.

Chú thích:

[1] Các sử quan nhà Minh (明朝史官), Minh thực lục (明實錄) (1961) , Trung ương nghiên cứu viện - Lịch sử ngữ ngôn nghiên cứu sở (中央研究院 - 历史语言研究所), Bắc Kinh ( 北京 ) Quốc lập Bắc Bình đồ thư quán (国立北平图书馆), tập 2, Thái Tông Văn Hoàng đế thực lục.
[2] Chu Khứ Phi (周去非) , Lĩnh ngoại đại đáp (嶺外代答), (1999), Trung Hoa thư cục (中华书局)
[3] Cristophoro Borri , Xứ Đàng Trong năm 1621 (1998), NXB TP HCM.

(Ảnh sản phẩm quạt sừng giấy dó châm kim)

BẢN QUYỀN NGHIÊN CỨU THUỘC VỀ:
Công ty cổ phần Ỷ Vân Hiên

NGÔI ĐỀN ĐẶC BIỆT GIỮA LÒNG THỦ ĐÔ

NGÔI ĐỀN ĐẶC BIỆT GIỮA LÒNG THỦ ĐÔ

Nằm khiêm tốn trong một con ngõ nhỏ trên phố Thụy Khuê, Hà Nội, mang dáng vẻ lụp xụp, chắp vá với những mái ngói xô nghiêng như đang oằn mình trước sự tàn phá của thời gian song ngôi đền đó lại mang trong mình những câu chuyện đặc biệt và không kém phần bi hùng của lịch sử dân tộc trong giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỷ XIX .

Đó là đền Cố Lê, tên chữ là “Cố Lê Tiết Nghĩa Từ”, tọa lạc tại số 124 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Các nhân vật được thờ tại đền là những vị danh nhân mang thân phận rất đặc biệt và éo le trong buổi giao thời giữa hai thế kỷ XVIII-XIX của lịch sử dân tộc. Theo thông tin của ông Nguyễn Hồng Quảng – người trông coi đền cung cấp: Vào năm 1857, vua Tự Đức đặc sai bộ Lễ, bộ Công và các quan tỉnh điều tra, khảo cứu về thân thế sự nghiệp của các vị trung thần cuối nhà Lê. Sau đó chọn ra 23 vị trung thần tiết nghĩa và 10 tòng tự trong đó có 12 vị họ Nguyễn, 8 vị họ Lê, 8 vị họ Trần và các họ khác.

Đền được xây dựng ở phía Tây thành Hà Nội, tại phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận (nay là ngõ 124, đường Thụy Khê, Hà Nội) và hoàn thành vào năm 1860. Thứ tự các bài vị đều sắp đặt theo như lời bàn của Bộ Lễ. Chính giữa đền là linh vị của Trường Phái hầu Lê Quýnh, đặt tên thụy “Trung Nghị”. Bên tả thờ linh vị của 11 vị quan võ, bên hữu thờ 11 vị quan văn, tất cả đều được đặt tên thụy “Trung Mẫn” . Ngoài ra mỗi bên còn thờ 5 vị đại thần “tòng tự”.

Lật lại lịch sử:

Lê Quýnh là một võ quan dưới thời vua Lê Hiển Tông, nguyên quán tại hương Đại Mão, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Đại Mão, xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ông ra làm quan từ năm 21 tuổi, là tác giả của tập “Bắc hành tùng ký”, “Bắc hành lược biên” và “Bắc sở tự tình phú” nổi tiếng. Sau năm 1789, khi quân Tây Sơn dẹp yên 29 vạn quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống cùng Thái hậu, Thái tử và đám tùy tùng trốn chạy sang nhà Thanh. Ít lâu sau, Lê Quýnh nhận được thư của đại thần nhà Thanh Phúc Khang An sang Trung Quốc để giải quyết quốc sự. Ông cùng 13 vị sĩ phu trung thành với nhà Lê sang tìm gặp vua Lê Chiêu Thống để bàn đại chuyện. Tuy nhiên, khi gặp vua, Lê Quýnh mới biết sự thật là họ đã mắc mưu nhà Thanh: phải gọt tóc, mặc trang phục Mãn (để được lưu vong ở Trung Quốc theo luật nhà Thanh) và được ban chức tước, bổng lộc - những mong cầu cứu vua Thanh một lần nữa.
Triều đình nhà Thanh muốn nhóm Lê Quýnh cũng theo vua Lê Chiêu Thống. Tuy nhiên, mặc dù dụ dỗ đủ kiểu nhưng Lê Quýnh và những người sang sau nhất định từ chối. Vì vậy, cả nhóm ông bị bắt giam trong ngục nhà Thanh suốt 16 năm. Trong suốt thời gian đó, Lê Quýnh và các vị trung thần vẫn kiên quyết giữ lòng trung. Năm 1804, ông cùng cả nhóm “bất tuân” được thả về nước, mang theo thi hài của gia quyến vua Lê Chiêu Thống an táng tại Thọ Xuân - Thanh Hóa (đất phát tích của nhà Hậu Lê). Thời Lê Trung Hưng, người dân Đàng Ngoài mặc áo giao lĩnh, xõa tóc. Tác phẩm “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” kể lại: khi Lê Quýnh về nước, ông vẫn “xõa tóc, mặc áo cừu, đi thăm thú các chùa ở quê nhà” trong khi cách ăn mặc của người dân đã dần thay đổi theo tục Đàng Trong (mặc áo 5 thân, búi tóc). Năm 1805, Lê Quýnh qua đời. Các vị còn lại không nhận lời mời ra làm quan cho nhà Nguyễn mà chủ yếu về quê ở ẩn.

Giai thoại về các vị trung thần tiết nghĩa của nhà Lê đã từng gây nhiều tranh luận bởi nó gắn liền với một thời điểm hết sức nhạy cảm trong lịch sử và gắn với vị vua bị xem là kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”. Tuy nhiên, có thể thấy lập trường của các vị trung thần này có thể không phù hợp với xu thế thời đại nhưng giai thoại trên cũng là một tấm gương sáng về tấm lòng trung quân ái quốc, không chịu khuất phục những kẻ ngoại bang.



Di tích hồi sinh:

Thăm đền Cố Lê vào ngày rằm tháng 2 âm lịch năm Mậu Tuất (tức ngày 31/3/2018), tôi không khỏi chạnh lòng về một chốn thờ tự tôn nghiêm ngày nào từng được triều đình nhà Nguyễn sắc phong đang xuống cấp trầm trọng. Khuôn viên đền xưa vốn rất rộng thì hiện nay đang bị các nhà dân lấn chiếm nghiêm trọng nhằm xây dựng nhà cửa kiên cố. Theo nhiều bài báo phản ánh trước đây, từ sau năm 1954 đền Cố Lê bị Hợp tác xã Hữu Nghị chiếm dụng vào mục đích sản xuất. Người dân muốn vào thắp hương phải được sự đồng ý của ông chủ nhiệm. Đồ tế khí đã bị thất thoát rất nhiều, chỉ còn 23 bài vị của các vị trung thần nhà Lê bị xếp vào một góc. Đến năm 1996, khu đất của đền bị hợp tác xã Hoa Sen thuê lại. Trước những kiến nghị của người dân địa phương, kể từ năm 2008, việc thu hồi đất trả lại không gian cho khu di tích mới bắt đầu được tiến hành. Tuy nhiên công việc này rất khó khăn và gian nan, phải trải qua rất nhiều công văn và các cuộc thanh tra của các cơ quan ban ngành. Hiện nay, không gian thờ tự của đền đã và đang được từng bước phục hồi. Tuy nhiên, do phường Thụy Khuê chưa thành lập ban quản lý di tích đền Cố Lê nên hai ông Nguyễn Hồng Quảng và Tô Đức Thanh (nguyên là cán bộ công tác Đảng và Mặt trân Tổ Quốc phường Thụy Khuê) tạm thời được giao nhiệm vụ trông coi và lo hương khói.

Khi bước vào trong nội tự của đền, tôi nhận thấy nơi đây có kiểu kiến trúc “Trùng thiềm điệp ốc” khá giống với kiến trúc cung điện trong cố đô Huế. Đền có 5 gian rất rộng. Các bài vị được tôn trí khá nghiêm trang theo đúng sắp xếp của người xưa. Tuy nhiên, nội thất vẫn còn khá sơ sài. Nhiều cột gỗ bị mối mọt, mục ruỗng nghiêm trọng. Nhà đền mở cửa đón khách thập phương lễ bái vào các ngày 30, mùng 1, 14, 15 Âm lịch hằng tháng.

Ông Tô Đức Thanh cho biết: Việc đòi lại được không gian thờ tự cho đền Cố Lê là một nỗ lực rất lớn của nhân dân cụm 3 phường Thụy Khuê. Hiện tại, bằng nguồn kinh phí xã hội hóa, trong đó chủ yếu là sự đóng góp từ người dân địa phương và hậu duệ của các vị trung thần Lê triều; đền đã được gia cố tạm thời bằng hệ thống khung kim loại để chống sập, lắp các tấm nhựa chống dột, làm mới cửa và mua sắm các án thờ mới. Tháng 12/2017, đền đã cử hành đại lễ phụng nghinh an vị. Dự kiến, sau khi được công nhận là di tích lịch sử, địa phương sẽ xin ý kiến chỉ đạo của chính quyền quận Tây Hồ. Khi đó, việc trùng tu mới bắt đầu khởi động. Kinh phí để tiền hành trùng tu, nâng cấp đền Cố Lê là con số không hề nhỏ và cần phải có sự chung tay của cộng đồng.

Hi vọng rằng trong một tương lai không xa, di tích “Cố Lê Tiết Nghĩa Từ” sẽ được phục hồi tương đối đúng với tầm vóc khi xưa.

11 June 2018

Trà sen Tây Hồ

❤️❤️❤️TRÀ SEN HẠ TRANG❤️❤️❤️
+💕Trà: Trà dùng ướp sen xổi là loại trà ngon tại vùng chè thái nguyên. Được chế biến theo đúng quy trình kỹ thuật thủ công truyền thống bao gồm các công đoạn làm héo chè, vò chè, lên men chè, sấy chè với bí quyết chỉnh lửa và cách lấy hương bằng lửa bí truyền.
💕Sen ướp trà: Là loại sen hồng hai lớp cánh, những bông to thường trăm cánh, loại sen Hồ Tây. Đây là loại sen có hương thơm đặc biệt, hơn hẳn sen ở các vùng khác.
💖Bảo quản chè ướp bông sen Tây Hồ
Chè ướp bông sen tươi được bán theo bông, hút chân không. Mùa Sen thì ướp đợt nào bán đợt đấy. Hết mùa sen, chúng tôi bảo quản trong tủ đông chuyên dụng.
Bảo đảm chè ướp sen xổi nhưng có thể cung cấp quanh năm cho khách hàng. Đây chính là sản phẩm chè ướp trong bông hoa sen, chè ướp búp sen, trà ướp sen phủ tây hồ….
Với khách hàng muốn gửi trà đi xa, vào Sài Gòn hoặc ra nước ngoài, chúng tôi sẽ cho chè ướp trong bông hoa sen Hồ Tây vào hộp xốp, ướp đá khô công nghiệp. Phần phụ phí này quý khách phải chi trả thêm bên cạnh chi phí mua chè ướp bông sen.
💝💝💝Khuyến mại đặc biệt chè ướp bông sen tươi
Từ ngày 10/6 đến hết ngày 30/7 giá trà ướp bông sen Tây Hồ của Trà sen Hà Trang giảm còn 40k/búp với đơn hàng từ 20 bông trở lên. Còn chờ gì nữa, hay mau gọi điện đặt mua chè ướp bông sen xổi của Trà sen Hà Trang nhé. 
Liên hệ 0965111991 
Fb : #banhkhaoxua





28 May 2018

Hà Nội : Bán nón dân tộc Tày Nùng

Chuyên cung cấp nón dân tộc Tày , Nùng tại Hà Nội
Giá : 135k/c
Liên hệ : 0965111991




17 August 2017

Quạt sừng giấy dó châm kim thủ công tại Hà Nội

Nhà Rơm mới về một ít quạt sừng giấy dó châm kim. Các thầy trong làng có nhu cầu dùng quạt liên hệ nhà em 
PM : Đây là loại quạt được làm hoàn toàn thủ công, từ khâu chẻ tách cật/ bọng Tre, ghép nan, khoan lỗ, đóng nhài,…, dán quạt ( phất nhựa Cậy- phết màu- phất nhựa Cậy), phơi nắng, châm kim. Đặc biệt hai nan cái bên ngoài được làm bằng sừng trâu. Loại quạt này nếu dùng tốt thì có tuổi thọ khoảng 30 năm vẫn tốt, không bị mối mọt hay bị mục nát. Càng dùng càng bóng đẹp. Liên hệ mua quạt 0965111991 ạ





Bánh khảo cỡ nhỏ dâng lễ tháng 7

Sắp sang Tháng 7 . Để tiện cả nhà dâng bánh lên Chùa cúng ngày rằm với số lượng . #banhkhaoxua cungc cấp thêm mẫu bánh loại nhỏ ( đủ màu ) kích thước bé hơn mẫu bánh cũ / giá 6k/c . Liên hệ đặt bánh nhà Rơm cả nhà nhé 0965111991




27 April 2017

Hương vị bánh khảo xưa truyền thống người Việt



Nếu như bánh chưng giống như ông hoàng được nhà nhà, người người nhớ đến mỗi độ Tết về, thì bánh khảo là nàng công chúa ngủ trong rừng bị lãng quên đã lâu.

Ngoài kia, dưới làn sương mù mỏng như lụa quyện trong cái lạnh tái tê da thịt, những nụ đào đã nở rộ khoe sắc báo hiệu Tết đến xuân sang. Nếu như bánh chưng giống như ông hoàng được nhà nhà, người người nhớ đến mỗi độ này thì bánh khảo là nàng công chúa ngủ trong rừng bị lãng quên đã lâu.

Bánh khảo theo quan niệm của người Việt xưa là thứ bánh trắng ngần, thanh khiết làm từ gạo cộng với lớp nhân ngọt thơm từ những hương liệu bình dị kết tinh những tinh hoa của đất trời, được bọc trong những lớp giấy đủ màu sắc sẽ đem lại may mắn cho một năm mới. Vì vậy ngày lễ tết thiếu bánh khảo dường như không trọn vẹn. Theo thời gian, do cách chế biến mất khá nhiều thời gian và cuộc sống hiện đại khiến những mứt, những kẹo cứ thay thế dần và lấn át thức quà quê kiểng này. Nhưng nó không hề bị “tuyệt chủng” mà trái lại, những ai yêu nó, thèm cái hương vị vọng về của Tết xưa vẫn cò thể tìm thấy nó ngay giữa lòng phố cổ đông đúc, bộn bề.

Đặt mua bánh Khảo: 0965111991

Bánh khảo do Bánh Khảo Xưa ( FB Bánh Khảo Xưa )  làm được làm hoàn toàn thủ công, không có chất bảo quản, được làm từ nếp hương, nhân đậu xanh (hoặc mứt bí).

Gọi điện ngay để đặt hàng: 0965111991

Bánh khảo xưa dâng lễ

Bánh khảo là một loại bánh có nguồn gốc xuất phát từ miền Bắc của nước ta. Bánh được sử dụng nhiều cho những ngày lễ, cũng là một món bánh dâng cúng trong những ngày lễ đền chùa và trên bàn thờ gia tiên ngày lễ Tết Nguyên Đán.

Đặt mua bánh Khảo: 0965111991

Bánh khảo do Thanh Duyên làm được làm hoàn toàn thủ công, không có chất bảo quản, được làm từ nếp hương, nhân đậu xanh (hoặc mứt bí).
Do hạn sử dụng ngắn ( khoảng 15 ngày), nên chúng tôi chỉ bán theo đơn đặt hàng trước

Gọi điện ngay để đặt hàng: 0965111991




03 October 2016

Những con giáp lận đận đường tình duyên



Gặp nhau là cái duyên, nhưng có thể sống với nhau trọn đời hay không là do số phận của mỗi người. Nếu may mắn, bạn ắt sẽ không nằm trong danh sách “tình duyên lận đận” dưới đây:

Hạng 1: Tuổi Tý

Thông minh, lanh lợi và khá tinh ranh, người tuổi Tý rất kén chọn trong tình yêu. Chính vì thế, họ đã bỏ lỡ khá nhiều cơ hội để có thể nắm bắt được tình yêu chân chính của đời mình.



Thông minh, lanh lợi và khá tinh ranh, người tuổi Tý rất kén chọn trong tình yêu (Ảnh minh họa)

Với họ, yêu là phải mang đến cho nhau cảm giác mới lạ, không bị nhàm chán. Khi phát hiện thấy mối quan hệ giữa họ và nửa kia không còn như trước, con giáp này sẵn sàng dứt áo ra đi để tìm nguồn cảm hứng mới. Thế mới nói, người tuổi Tý khá vất vả và lận đận về đường tình duyên, thông thường kết hôn khá muộn.

Hạng 2: Tuổi Sửu

Trong tình yêu, người tuổi Sửu khá nhút nhát, kín đáo, đa phần có xu hướng giấu giếm tình cảm chứ không thẳng thắn bày tỏ. Nếu không nói ra, rất có thể ngay cả nửa kia cũng khó lòng biết được tình cảm thực sự của họ là như thế nào.



Thêm nữa, khi tình yêu của họ xuất hiện người thứ ba, thay vì dũng cảm đương đầu để giành lại tình yêu, người tuổi Sửu lại chọn cho mình cách im lặng, nhượng bộ và cam chịu.

Hạng 3: Tuổi Thìn

Đa phần những ai cầm tinh con Rồng đều khá giỏi giang, nên đi tới đâu cũng có người thầm thương trộm nhớ. Tuy nhiên cuộc đời họ cũng trải qua không ít cung bậc thăng trầm trong chuyện tình cảm.




Nhưng thật không may cho con giáp này, họ yêu phải người không nên yêu, ví dụ người đó đã có chồng hay vợ. Chính vì thế mà đường tình duyên của người tuổi Thìn trắc trở vô cùng.

Hạng 4: Tuổi Mùi

Ai cũng không thể phủ nhận sự tỉ mỉ, nhạy cảm của người tuổi Mùi. Chính vì thế, làm việc gì con giáp này cũng suy nghĩ quá nhiều, tự mua dây buộc mình, tạo áp lực cho bản thân.



Trong tình yêu, người tuổi Mùi có cách nghĩ khá tiêu cực. Dù đang trong giai đoạn mặn nồng của tình yêu nhưng cũng nghĩ đủ thứ về viễn cảnh áp lực con cái, mối quan hệ với gia đình hai bên, nỗi lo cơm áo gạo tiền… Đây cũng là một trong những con giáp vất vả đường tình duyên.

Hạng 5: Tuổi Hợi

Đa phần người tuổi Hợi có lối suy nghĩ tích cực và khá nghiêm túc trong mọi việc, kể cả tình cảm. Vì thế, hiếm khi thấy họ thể hiện chút tình cảm lãng mạn, dành một vài lời nói yêu thương ngọt ngào chứ đừng nói tới việc bông đùa, mang yếu tố hài hước vào tình yêu.



Không ít người cho rằng, đó là cách sống quá thực dụng, thiếu vắng lãng mạn trong cuộc đời. Điều này quả không sai, vì bản thân con giáp này rất coi trọng sự nghiệp, địa vị, vật chất, không ngừng phấn đấu, theo đuổi vinh hoa phú quý.

Với họ, cuộc sống vật chất bền vững mới là nền tảng cơ bản giúp tình yêu thăng hoa, gia đình êm ấm. Bản thân họ không ngờ rằng, vì mải theo đuổi sự nghiệp mà đường tình duyên của họ lại gặp nhiều sóng gió như vậy.
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa[2]. na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất bà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ, Ta Bà Ha.

Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng . Hàng Ông Hoàng gồm:

01- Ông Hoàng Cả ( Thượng Thiên )
02- Ông Hoàng Đôi Thượng Ngàn ( Người Nùng )
05- Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc
06- Ông Hoàng Tư
07- Ông Hoàng Năm
08- Ông Hoàng Bảy ( Bảo Hà )
09- Ông Hoàng Bát

Tứ phủ Thánh Cô

Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
3 - Cô Tư Ỷ La
7 - Cô Bảy Kim Giao
10 - Cô Mười mỏ ba
11 - Cô bé Thượng ngàn ( cô bé Đông Cuông /Cô Bé Suối Ngang ( Hữu lũng ) / Cô bé Đèo Kẻng ( Thất Khê ) / Cô Bé Tân An ( Lào cai ) / Cô bé Cây xanh ( Bắc Giang ) / Cô bé Nguyệt hồ ( Bắc Giang ) / Cô bé Minh Lương ( Tuyên Quang ) / Cô bé Cây xanh ( Tuyên Quang ) / cô bé Thác Bờ ( hòa Bình ) / Cô bé Thoải phủ

Bánh Xưa ( Hà Nội )

Bánh Xưa ( Hà Nội )
Cung cấp Bánh khảo - bánh in huế truyền thống / 0965111991