11 December 2010

Lễ Hội chùa Keo Hành Thiện 2010

Lễ Hội chùa Keo Hành Thiện 2010

Như các bạn đã biết, hằng năm cứ đến tháng 9 âm lịch, cư dân thuộc Làng Hành Thiện, Xã Xuân Hồng Huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định lại tổ chức Hội Làng Truyền Thống để mừng ngày sinh nhật của đức Thánh Tổ Dương Không Lộ (Không Lộ Thiền Sư 14-9 âm lịch). Hội diễn ra trong 5 ngày từ ngày mồng 10 đến ngày 15. Có 2 ngày chính là 12 và 15, cũng là 2 ngày dân làng Rước Kiệu truyền thống và diễn ra hội thi Bơi Trải, một nét văn hóa đặc trưng, độc đáo nhất mà không nơi nào có trên mảnh đất Việt Nam. Phóng sự ảnh sau đây tôi gửi tới các bạn ngắn gọn về nội dung chính của Lễ Hội năm 2010 và cũng giống như hằng năm, gồm có 2 phần chính quan trọng nhất là: Rước Kiệu và Thi Bơi Trải

Phần 1 – Lễ Rước Kiệu truyền thống




















Phần 2 – Hội thi Bơi Trải truyền thống
Tôi xin được nói qua về Hội Thi Bơi Trải truyền thống: Làng Hành thiện có tất cả 17 xóm (thống kê mới nhất) nhưng chỉ có 15 Trải (Thuyền đua) ứng với 15 xóm tham gia (vì xóm Trung mới nhập, xóm 12 và 13 nhập thành một Đội). Vì sao Tôi nói trên là một môn thi độc nhất vô nhị vì ở đây là Bơi Trải đứng (Chèo đứng như chèo đò), mỗi Trải có 10 người tham gia, trong đó có 1 ông lái và 9 người chèo. Tư thế chèo ở đây các bạn hình dung như chèo đò để dễ hiểu nhất (không giống như các hội thi chèo thuyền của những địa phương khác trên đất nước Việt Nam là ngồi và cầm mái chèo vục xuống nước). Bắt đầu xuất ở trong sông con (một dòng sông chảy quanh co theo trục của làng Hành Thiện) độ dài của sống chừng 4-5km, đi hết con sông này đoàn đua sẽ ra tới sông lớn là sông Ninh Cơ (nhánh của sông Hồng), và thực hiện luật thi là chèo vòng quanh con sông này với 3.5 vòng rồi quay về bắt Têu (như dân địa phương hay gọi) hay Nêu (theo đúng nghĩa của nó) trong sông con, nếu đội nào về đầu thì sẽ dành giải nhất. Trung bình mỗi cuộc thi bơi trải diễn ra từ 3.5 - 4 h đồng hồ) Đây là môn thi đấu cổ truyền rất tuyệt vời đáng được ghi nhớ cũng như lưu trong sử sách của Dân tộc ta, và vẻ đẹp của nói khó ở môn thi nào có được. Giải thưởng của nó thì chẳng đáng là bao với vài trăm ngàn đồng và những tấm bánh dày, nhưng môn thi này đã ăn sâu vào trong tâm thức của người dân ở vùng quê tôi, nó đã là một điều gì đó thiêng liêng mà là một niềm kiêu hãnh không thể khuất phục. Tôi tự hào về nó…
























CHÈOOOOOOOOOO......










































































































































Thực hiện:
Vũ Quang Thành 2010

Chùa Keo Hành Thiện

Chào các bạn xa gần
Chào anh chị em Làng Hành Thiện (xóm Chùa Trong)

Chùa Keo Hành Thiện được xây dựng vầ tồn tại qua bao đời nay, và đã không ít lần được sự quan tâm của các cấp các ngành, đầu tư tu bổ. Năm 2009 Bộ Văn Hóa và Du Lịch đã quyết định tu bổ ngôi chùa cổ kính và linh thiêng này với tổng dự án lên đến 15 Tỷ đồng. Mặc dù sửa chữa, tu bổ mới lại ngôi chùa nhưng những nét kiến trúc cổ, hình hài tổng thể vẫn được giữ nguyên, vẫn toát lên được vẻ đẹp cổ kính và nét văn hóa độc đáo. Tôi chụp bộ ảnh mới 2010 để cho các Anh chị em, cô bác xa gần được tận mắt thấy được sự thy đổi và một lần nữa lại được nhìn ngắm quê hương mình.





































































 



















Các bạn thấy thế nào?
Chùa Keo Hành Thiện có đẹp hơn không?


Nếu bạn xem bộ ảnh trước Tôi chụp với tựa đề: Chùa Keo Quê Hương Tôi (cũng trong Blog này) thì bạn sẽ có cái nhìn sâu hơn về sự đổi thay của nó. Và bạn cũng có thể thấy được Chùa Keo Hành Thiện qua năm tháng, nó cũng giống như cuộc đời của chúng ta vậy, luôn có sự đổi mới và cuộc sống ngày 1 sẽ tốt đẹp hơn.

Cảm ơn anh chị em, cô bác đã xem bộ ảnh Chùa Keo Hành Thiện 2010, nay thuộc Xã Xuân Hồng, Huyện Xuân Trường, Tỉnh Nam Định. Tôi rất vui nếu nhận được nhiều đóng góp từ các bạn, và rất mong các Cô bác, anh chị em xa gần có tài liệu về Chùa Keo Hành Thiện (Làng Hành Thiện) chia sẻ với tôi để có một Blog's (hoặc website) chất lượng hơn nữa


Thực hiện:                          
Vũ Quang Thàn
h
Tháng 4 năm 2010

07 December 2010

Quan họ

Quan họ

Quan họ là một làn điệu dân ca, một lối hát giao duyên nổi tiếng của vùng đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam mà tập trung chủ yếu ở vùng Bắc Ninh-Kinh Bắc.
Nội dung chính trong buổi hát quan họ thường là khi hai bên nam-nữ hát đối nhau. Bên nam gọi là liền anh, bên nữ gọi là liền chị. Các câu hát có thể được chuẩn bị sẵn, nhưng ra đến khi đối đáp nhau thì thường dựa trên khả năng ứng biến của hai bên.
Các chàng trai, cô gái xứ sở quan họ hào hứng, hồi hộp đón chờ ngày hội làng, bởi trong những ngày hội đó, họ được thức thâu đêm, suốt sáng để được nghe, được hát và thi hát. Qua đó, họ học thêm ở nhau những câu ca, những làn điệu mới, họ tìm thấy ở nhau sự đồng cảm qua những ánh mắt, nụ cười.
Quan họ hiện đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý giao cho Bộ Văn hóa Thông tin có kế hoạch lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.

Nguồn gốc
Tên gọi Quan họ đã có từ rất xa xưa, không ai biết chính xác vì sao lại có tên gọi này. Có rất nhiều giả thuyết lý giải cho tên gọi Quan họ, nhưng cho đến nay chưa có giả thuyết nào có đủ tính thuyết phục. Có giả thuyết cho rằng Quan họ là thể loại âm nhạc của "Họ nhà quan" nên được gọi là Quan họ (Khác với các thể loại dân ca khác, Quan họ không được sinh ra từ tầng lớp nhân dân lao động, mà được sinh ra từ tầng lớp trung lưu nông thôn) Cũng có truyền thuyết cho rằng, có một ông quan cưỡi ngựa đi qua Làng Diềm xá (xã Hòa Long, huyện Yên Phong), gặp một cô gái đang hát điệu dân ca. Ông quan dừng ngựa lại (họ) để nghe, mê tiếng hát và đặt tên là làn điệu quan họ.

Các loại làn điệu quan họ
Các làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, cái ả, Gió mát trăng thanh, Tứ quý... Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam. Mỗi một bài Quan họ đều có giai điệu riêng. Cho đến nay, đã có ít nhất 300 bài (giai điệu) quan họ đã được ký âm (ghi âm bằng ký hiệu âm nhạc trên giấy). Các bài Quan họ được giới thiệu mới chỉ là một phần trong kho tàng dân ca Quan họ đã được khám phá. Kho băng ghi âm hàng nghìn bài Quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng Quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa tỉnh Bắc Ninh.

Ảnh hưởng của quan họ đến tân nhạc
Nhạc sĩ Phó Đức Phương trong sáng tác "Những cô gái quan họ" đã viết "Trên quê hương quan họ, một làn nắng cũng mang điệu dân ca..."

Một số bài hát quan họ:
Trống cơm 
Tình bằng có cái trống cơm 
Khen ai khéo vỗ 
Ố mấy bông mà nên bông 
Ố mấy bông mà nên bông

Một bầy tang tình con xít 
Một bầy tang tình con xít 
Ố mấy lội, lội, lội sông 
Ố mấy đi tìm, em nhớ thương ai 
Đôi con mắt ố mấy lim dim 
Đôi con mắt ố mấy lim dim 

Một bầy tang tình con nhện 
Ô ố ô ô mấy giăng tơ 
Giăng tơ ô mấy đi tìm, em nhớ thương ai 
Duyên nợ khách tang bồng 
Duyên nợ khách tang bồng... 

Trúc xinh 
Cây (i) trúc xinh, tang tình là cây trúc mọc 
Qua (i) lối nọ (i) như bờ ao 
Chị Hai xinh tang tình là chị Hai đứng 
đứng, đứng nơi nào qua lối như cũng xinh (láy) 

Cây (i) trúc xinh, tang tình là cây trúc mọc 
Qua (i) lối nọ (i) như bên đình 
Chị Hai xinh tang tình là chị Hai đứng 
đứng, đứng một mình qua lối như cũng xinh (láy) 

Cây (i) trúc xinh, tang tình là cây trúc mọc 
Qua (i) lối nọ (i) cơn mưa rào 
Lòng tôi yêu tang tình là chị Hai có 
có dạ nào qua lối như làm ngơ (láy) 
Còn duyên 
Còn duyên là duyên kẻ đón a đón người đưa 
Hết i duyên là duyên đi sớm (sớm) về trưa í mặc lòng 
Người còn không đây tôi vẫn ở không 
Tôi mà còn không, đây em chửa có chồng 
Đây tôi chửa có ai, tính a tinh tính tình tình tinh 
A hội hà, hư hội hừ là hứ hội hừ 

Còn duyên là duyên ngồi gốc (gốc) cây thông 
Hếtí duyên là duyên ngồi gốc (gốc) cây hồng là hồng hái hoa 
Có yêu nhau sang chơi cửa chơi nhà 
Cho thầy là thầy mẹ biết để đuốc hoa (đuốc hoa) định ngày 
Tính a tinh tính tình tình tinh 
A hội hà, hư hội hừ là hứ hội hừ 

Còn duyên là duyên buôn nụ (nụ) bán hoa 
Hết i duyên là duyên ngồi gốc cây đa (chứ) đa đợi chờ 
Đừng thấy tôi lắm í bạn mà ngờ 
Tuy rằng tôi lắm bạn nhưng vẫn chờ (là chờ) người ngoan 
Tính a tinh tính tình tình tinh 
A hội hà, hừ hội hừ là hứ hội hừ 

Lý cây đa (Bắc Ninh) 
Trèo lên quán dốc ngồi gốc ý y cây đa là lý lý như cây đa 
Hỡi cô phú lý tình là cô mặc áo vỏ già hoa lý như nâu non...vỏ già hoa lý lý như nâu non 
Chẻ tre đan nón là lý lý như ba tầm 
Ai đan phú lý tình là cho người đội đêm rằm là lý lý như tháng 
Giêng...là lý lý như tháng Giêng 



Khách đến chơi nhà
Trình bày : Thủy Cải 

Khách đến đến chơi hự nhà là chơi hự nhà 
Đốt than ấy ơ dầu mà quạt nước mấy pha trà là mời người xơi...là chén ấy a trà này 
Quý vậy ơ...quý vậy đôi người ơi 
Mỗi người là người xơi mỗi chén ấy cho em ý y vui lòng...là em ấy ơ muốn cho 
Sông cạn ấy ơ đấy liền 

Để tôi ấy ơ dầu mà đi lại mấy kẻo phiền là đò samg là...tối ấy ơ vào chùa 
Bây chừ ý ơ linh à nha 

Gần chùa là chùa chẳng bén mấy duyên hương ý y chút nào...là sáng có cả trăng chùa 
Sáng ấy ơ sáng cả vườn đào 

Ba bốn người là người ngồi đấy...mấy người nào là còn không là...có ấy à nên chăng 
Se sợi ý ơ chỉ hồng 
Khách đến đến chơi hự nhà là chơi hự nhà 
Đốt than ấy ơ dầu mà quạt nước mấy pha trà là mời người xơi...là chén ấy a trà này 
Quý vậy ơ...quý vậy đôi người ơi 

Người ở đừng về 
Con nhện giăng mùng 
Kẻ Bắc, người Nam



Chầu văn


Chầu văn

Hát văn, còn gọi là chầu văn hay hát bóng, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc trong nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ, một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan. Đến đầu những năm 1990, hát văn lại có cơ hội phát triển. Các trung tâm của hát văn là Nam Định và một số vùng quanh Hà Nội.
Hát văn có ba loại là hát thi, hát thờ và hát lên đồng:
·                                 Hát thi: dùng trong các cuộc đua tài, thường là hát đơn.
·                                 Hát thờ: được hát trước ngày tiệc, đầu rằm, mồng một, ngày tất niên và hát trước khi vào các giá văn lên đồng.
·                                 Hát lên đồng, hay còn gọi là hát hầu bóng: người theo tín ngưỡng chỉ được hầu bóng từ hàng dưới các đức thánh mẫu quyền uy trong Tứ phủ công đồng, đó là hệ thống chầu các quan hoàng trở xuống.
Hầu đồng là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác ông Đồng bà Cốt. Trong nghi lễ đó, hát vǎn phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển thánh. Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn. Lúc nầy cũng là lúc thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước v.v. Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cương (khai quang) cho thanh sạch.

Đàn nhạc
Đàn nhạc hầu bóng gồm có một đàn nguyệt, một đàn nhị, một trống nhỏ (gọi là trống con), một cảnh đôi, một phách. Tùy từng địa phương, tùy hoàn cảnh hành lễ mà người ta có thể thêm bớt nhạc cụ này hoặc nhạc cụ khác. Nhưng đàn nguyệt, trống nhỏ, cảnh đôi là các nhạc cụ nòng cốt, nhạc cụ tính cách của dàn nhạc nên không thể thiếu được. Những buổi hát thờ lớn thì thêm một cỗ trống lớn, chiêng, sáo và tiêu.

Sắp xếp lối hát lên đồng
   1. Nghi lễ hát chầu văn lên đồng có thể chia thành bốn phần chính:
   2. Mời thánh nhập
   3. Kể sự tích và công đức
   4. Xin thánh phù hộ
   5. Đưa tiễn
Bài hát thường chấm dứt với câu: "Thánh giá hồi cung!"

Các làn điệu và tiết tấu
Về tiết tấu, hát văn thường sử dụng nhịp ngoại (đảo phách). Loại nhịp này mang đến một cảm giác không ổn định trong tâm trí người nghe, đưa người nghe vào trạng thái mông lung, huyền ảo.
Hát văn có 13 điệu, hay còn gọi là lối hát. Đó là: Bỉ, Miễu, Thổng, Phú Bình, Phú Chênh, Phú Nói, Phú Rầu, Đưa Thơ, Vãn, Dọc, Cờn, Hãm và Dồn.
·                                 Bỉ mang sắc thái trịnh trọng, được dùng để hát trước khi chính thức vào một bản văn thờ hoặc văn thi. Có 2 cách hát: Bỉ 4 câu và Bỉ 8 câu. Bỉ được lấy theo dây lệch, nhịp theo lối dồn phách.
·                                 Miễu là lối hát rất nghiêm trang, đĩnh đạc, chỉ được dùng trong hát thi và hát thờ, tuyệt nhiên không bao giờ được dùng trong Hầu Bóng. Miễu được lấy theo dây lệch, nhịp đôi.
·                                 Thổng chỉ giành riêng cho văn thờ và văn thi, được lấy theo dây bằng, nhịp ba.
·                                 Phú Bình dành riêng cho hát văn thờ, rất đĩnh đạc, và dùng để hát ca ngợi các nam thần. Phú Bình được lấy theo dây lệch, nhịp 3.
·                                 Phú Chênh là lối hát buồn, thường dùng để hát trong những cảnh chia ly. Được lấy theo dây bằng, nhịp 3.
·                                 Phú nói thường dùng để mô tả cảnh hai người gặp gỡ, nói chuyện với nhau. Dùng trong hát văn thờ, văn thi và cả trong hầu bóng. Lấy theo dây bằng, nhịp ba hoặc không có nhịp mà chỉ dồn phách.
·                                 Phú rầu là lối hát rất buồn, được lấy theo dây bằng nhưng hát theo nhịp đôi.
·                                 Đưa thơ được lấy theo dây bằng, nhịp 3 và dồn phách, nhưng chủ yếu là dồn phách.
·                                 Vãn lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất lục bát, hát theo lối vay trả (vay của câu trước thì trả lại trong câu sau).
·                                 Dọc lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất - lục bát và hát theo nguyên tắc vay trả. Nếu hát từng câu thì gọi là nhất cú. Nếu hát liền hai câu song thất - lục bát thì gọi là "Dọc gối hạc" hay "Dọc nhị cú".
·                                 Cờn dùng để ca ngợi sắc đẹp các vị nữ thần. Cờn được lấy theo dây lệch, nhịp đôi. Có thể hát theo dây bằng, nhưng hầu hết là hát kiểu dây lệch (biến hóa).
·                                 Hãm lấy theo dây bằng, nhịp đôi, đây là lối hát rất khó vì phải hát liền song thất lục bát. Trong lối hát này có một tuyệt chiêu là Hạ Tứ Tự, có nghĩa là mượn bốn chữ của trổ sau, khi sang một trổ mới thì lại trả lại bốn chữ ấy.
·                                 Dồn được lấy theo dây bằng, nhịp 3.
Ngoài ra hát chầu văn còn có thể mượn các làn điệu nhạc cổ truyền khác như ca trù, quan họ, hò Huế và cả những điệu hát của dân thiểu số[1]
Xen kẽ những đoạn hát là đoạn nhạc không lời, gọi là lưu không.



Nhà hát chèo quân đội

06 December 2010

Chúa Đệ Tam Lâm Thao ( hát văn : Quang Duy )



Chúa Đệ Tam Lâm Thao        .



Chúa Bà Đệ Tam Lâm Thao là bà chúa chữa dưới thời Hùng Vương. Bà còn có tên là Bà Chúa Ót (theo một số ý kiến thì Tam Vị Chúa Mường có bà chúa Lâm Thao là bà chúa thỉnh cuối cùng nên được coi là út, đọc chệch đi là Bà Chúa Ót). Tương truyền rằng, bà là công chúa, con gái ruột của Vua Hùng, từ bé đã bị hỏng một bên mắt. Tuy vậy bà vẫn một lòng giúp vua cha trị quốc, bà là người lo việc quân nhu quân lương trong các cuộc chiến trận, ngoài ra bà còn là người có tài bốc thuốc nam, bà đi khắp vùng đem tài năng của mình để cứu giúp dân lành. Bà Chúa Đệ Tam Lâm Thao cũng là một người có lòng mộ đạo, thường xuyên ăn chay niệm phật để cầu cho quốc thái dân an.


Chúa Bà Lâm Thao cũng là vị chúa rất hay ngự về, sau Chúa Nguyệt Hồ. Như hai vị chúa trên, khi người ta dâng đàn Chúa Bói thì thường thỉnh chúa về chứng tòa Chúa Đệ Tam màu trắng. Khi về đồng bà thường mặc áo trắng, có nơi khi hầu bà thì múa mồi như Chúa Bà Đệ Nhị Nguyệt Hồ, nhưng có nơi hầu chúa lại chỉ dùng quạt khai quang.


Chúa Lâm Thao được thờ chính tại Đền Lâm Thao ở Cao Mại, Việt Trì, Phú Thọ (tương truyền là nơi khi xưa chúa lập kho quân nhu quân lương và bốc thuốc cứu dân). Ngày tiệc của Bà Chúa Ót tương truyền là 25/12 âm lịch. Trong văn chúa, thường hát rằng:


“ Lâm Thao, Cao Mại quê nhà

Anh linh trắc giáng Chúa Bà Đệ Tam”



hát văn : Chúa đệ tam Lâm Thao
trình bày : Quang Duy 

Hay cũng có đoạn hát sử chúa:

“ Hùng Vương Thánh Tổ Lạc Hồng
Sớm khuya chầu chực ngai rồng vua cha
Ngắm xem khắp hết gần xa
Vào Chùa Hương Tích Phật Bà Quan Âm
Một lòng mộ đạo nhất tâm
Quy y Phật Tổ thần thông nhiệm màu

Bài viết : Dương minh Đức 
Hát văn : Quang Duy ( đàn nguyệt / Nam định )
Ảnh: Thanh đồng Diệu Hoa
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa[2]. na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất bà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ, Ta Bà Ha.

Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng . Hàng Ông Hoàng gồm:

01- Ông Hoàng Cả ( Thượng Thiên )
02- Ông Hoàng Đôi Thượng Ngàn ( Người Nùng )
05- Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc
06- Ông Hoàng Tư
07- Ông Hoàng Năm
08- Ông Hoàng Bảy ( Bảo Hà )
09- Ông Hoàng Bát

Tứ phủ Thánh Cô

Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
3 - Cô Tư Ỷ La
7 - Cô Bảy Kim Giao
10 - Cô Mười mỏ ba
11 - Cô bé Thượng ngàn ( cô bé Đông Cuông /Cô Bé Suối Ngang ( Hữu lũng ) / Cô bé Đèo Kẻng ( Thất Khê ) / Cô Bé Tân An ( Lào cai ) / Cô bé Cây xanh ( Bắc Giang ) / Cô bé Nguyệt hồ ( Bắc Giang ) / Cô bé Minh Lương ( Tuyên Quang ) / Cô bé Cây xanh ( Tuyên Quang ) / cô bé Thác Bờ ( hòa Bình ) / Cô bé Thoải phủ

Bánh Xưa ( Hà Nội )

Bánh Xưa ( Hà Nội )
Cung cấp Bánh khảo - bánh in huế truyền thống / 0965111991