03 April 2011

Tục ăn bánh trôi bánh chay của người Việt

Tiết Thượng Tỵ mùng 3 tháng Ba (ngày Tỵ đầu xuân), người Việt Nam ta có tục lệ ăn tết “Hàn thực” (theo tiếng Hán Việt có nghĩa là ăn nguội), dân gian gọi nôm na là Tết mùng 3 tháng Ba hay Tết “bánh trôi bánh chay”.
Về nguồn gốc, có thể coi đây là một lễ thức nông nghiệp truyền thống ở Trung Hoa cổ đại, được đan xen vào văn hóa dân gian Việt Nam. Truyện xưa kể lại rằng nhà Tấn có người tôi trung là Giới Tử Thôi, sau bị vua hắt hủi nên dắt mẹ vào rừng ở, đến khi vua nhớ ra công trạng mời về thì Thôi nhất quyết không chịu, vua không có cách nào liền cho phóng hỏa đốt rừng hòng buộc Thôi phải đưa mẹ ra. Rốt cuộc cả 2 mẹ con chịu chết cháy. Đó là ngày 3 tháng Ba. Vua thương xót cho lập miếu thờ, hàng năm đến ngày này thì làm giỗ, có tục kiêng đốt lửa (thường làm trong 3 ngày = thời gian canh người chết), đồ ăn trong nhà phải làm sẵn từ hôm trước để hôm sau ăn lạnh (nguội). Vì vậy mà gọi là “Hàn Thực”. Đến thời Tống, sau 3 ngày còn thực hiện lễ thức “nhóm lửa lại” rồi mới nấu nướng như ngày thường. 






Thực ra, “tắt lửa” và “nhóm lửa lại” là những nghi lễ nông nghiệp có nguồn gốc xa xưa lắm rồi. Người Việt ta ăn Tết Hàn thực, có lễ thức làm bánh trôi bánh chay cúng gia tiên nhưng không kiêng đốt lửa, cũng chẳng mấy ai nhớ hay biết gì đến Giới Tử Thôi. Theo tục lệ cổ truyền người Việt, mùa xuân lấy tiết mùng 3 tháng Ba làm ngày tế tổ, đánh dấu sự chuyển thời tiết hàng năm từ mùa xuân sang mùa hạ. Vì thế đây còn là một ngày hội mùa, một dịp giải trí vui chơi, gặp gỡ giao duyên trước khi người Việt tiễn biệt những ngày ăn chơi của mùa xuân.

Món ăn nguội mà người Việt thường dùng trong Tết mùng 3 tháng Ba là “bánh trôi” và “bánh chay”. Bánh trôi là thứ bánh tròn, màu trắng, nhỏ như viên bi đất. Bánh được làm bằng bột gạo nếp bọc nhân đường phèn hay mật phên xắt vuông hạt lựu. Người ta nặn bánh rồi bỏ vào nồi nước đang sôi. Đun một lúc cho tới khi bánh nổi lên thì vớt ra đĩa và rắc vừng lên trên. Khi ăn, bánh có vị ngọt của đường/mật, vị thơm của vừng và cái dẻo ngon của bột nếp hòa quyện vào nhau rất tinh tế. Dân gian coi hình tròn của bánh là tượng trưng cho Trời (Dương), hình vuông của nhân là tượng trưng cho Đất (Âm). Trời bao bọc đất, Âm Dương tan hòa vào nhau. Ông cha ta quan niệm đó là sự giao hòa của vũ trụ, tạo vật và con người, đó cũng là lúc vạn vật sinh sôi nảy nở, cây cối tốt tươi…. Một mô típ tín ngưỡng phồn thực phổ biến trong cư dân nông nghiệp.

Còn có một chuyện kể khác về ý nghĩa của bánh trôi bánh chay. Ấy là sự mô phỏng tích trăm trứng trăm con của truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ. Lễ tục này được diễn lại vào lễ hội Đền Hùng (10/3 âm lịch) và ngày hội đền Hát Môn (5.3 âm lịch) – Đền thờ Hai Bà Trưng. Trong lễ này, dân làng làm một mâm gồm 100 cái bánh trôi để dâng cúng, sau khi thắp hương xong họ chia số bánh làm 2 phần: 50 cái đặt trên bè sen thả xuống sông, 50 cái đem rước đặt lên đỉnh núi. Đó cũng chính là biểu tượng của sự phân chia Cha Rồng Mẹ Tiên với 50 người con theo mẹ lên non và 50 người kia theo cha xuống biển. Tập tục này như vậy không chỉ mang yếu tố tín ngưỡng đơn thuần mà còn là ý thức nhắc nhở con cháu người Việt luôn nhớ tới cội nguồn, khẳng định sự đoàn kết các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Sau khi xong lễ đặt và thả bánh, mọi người được phép ào vào tranh nhau lấy bánh để cầu phúc lộc…


Ngoài bánh trôi còn có bánh chay, hay “bánh dùng”/”bánh mật” như thường gọi ở một số làng quê vùng Đất Tổ (Vĩnh Phúc,Phú Thọ). Bánh này hình tròn bẹt, cũng được làm bằng bột gạo nếp, khác ở chỗ nhân bánh làm bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ rồi đồ chín được bóp nhuyễn. Khi ăn người ta không bày ra đĩa mà xếp vào bát, mỗi bát 3 chiếc bánh rồi chế nước đường hoặc bột sắn dây quấy loãng, thả thêm trên mặt bát một ít đỗ xanh đồ chín hoặc vừng. Người ta cho rằng 3 chiếc bánh tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng, Trái Đất, đỗ và vừng là các vì sao lớn nhỏ… tất cả hợp thành vũ trụ trong món ăn. Tuy nhiên đấy là cách diễn giải cầu kỳ và lý thuyết của người phố thị, còn ở chốn thôn quê bình thường thì món bánh mật/bánh dùng được làm giản đơn hơn: Bột nếp hòa nước nguội nặn thành bánh tròn dẹt vừa trong lòng bàn tay; không cần nhân bánh; hòa mật (mía) với nước đun sôi cho vừa sánh thì thả bánh vào; bánh chín cho ra bát hoặc đĩa lõm, chan nước mật cho ngập mặt bánh, có thể rắc thêm vừng hoặc ăn vậy cũng rất ngon. Bánh này có vị ngọt đậm đà của mật kết hợp với sự dẻo quánh của nếp thơm tạo nên một ấn tượng dân dã, khó quên. Đã từng là một món quà mà lũ trẻ con rất ưa chuộng trong những năm tháng của ngày xưa, chỉ được thấy vị ngọt của kẹo của đường trong một năm đôi ba lần tết, tiệc.

Bánh trôi và bánh chay là hai thứ bánh có hương vị đặc biệt riêng của Việt Nam, lại có ưu điểm là dễ làm, chỉ xem hoặc đọc qua một lần là biết. Vì thế cho nên bánh trôi và bánh chay vẫn được dân gian bảo lưu truyền từ đời này sang đời khác, ở vùng này vùng khác. Đây là một trong những nét đẹp văn hóa dân tộc của người Việt, 
PM : " Mọi người vào blog , mời mỗi người 1 đĩa bánh trôi , 1 bát bánh chay " đề nghị không chen lấn xô đẩy "



Thăm đền Ông Hoàng Bảy Bảo Hà và Cô Tân An, Lào Cai!



8h sáng, bản hội lên đường, thẳng tiến đền Ông Hoàng Bảy Bảo Hà, Lào Cai. Đường mới làm xong, phẳng lì, trơn nhẵn như dải lụa, mềm mại, quanh co uốn khúc..Hai bên đường toàn gương cầu, xe nhô ra, hụp vào, xe nọ khuất tầm xe kia...Thân xe dài, đầu xe bên này, đuôi vắt bên khác, mình say lử cò bợ, nôn thốc nôn tháo, nằm bẹp như con gián...Mọi người an ủi, bảo là đêm qua ngủ muộn, lại suốt ngày nghe đt, nhắn tin, điều hành xe cộ...nên mới thế! Riêng mình, ngờ ngợ một điều...bị Ông quở, bởi vì sớm nay, sợ mọi người mệt, nên mình đã gàn, bảo ngủ rồi về, không lên Ông nữa...Y như rằng...lầm rầm khấn nguyện "xin Ông tha cho, con biết lỗi ạ"...Non 100km, tính từ Mẫu Đông Cuông...mãi rồi cũng tới nơi...Đền Bảo Hà< đền thờ thần vệ quốc Hoàng Bảy >, được xây dựng ngay chân đồi Cấm, bên bờ sông Hồng, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
                    
Khu vực đền, phong cảnh hữu tình "trên bến dưới thuyền" theo thuyết "phong thủy", có tiền án, hậu trảm, tả phù, hữu bật, là nơi thờ một danh tướng đời Lê, có công dẹp giặc, giữ nước, chiêu dụ nhân dân khẩn điền, khai mỏ, xây dựng quê hương...Đến thăm đền Ông, có thể đi bằng dường bộ, đường thủy, đường sắt một cách tiện lợi.
                     
Ông là danh tướng thứ bảy họ Nguyễn lên trấn phủ vùng biên ải, tiến dọc sông Hồng đánh đuổi giặc cướp vùng Vân Nam , giải phóng châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Trong một trận chiến đấu không cân sức với giặc phương Bắc, ông đã anh dũng hy sinh, xác ông trôi theo sông Hồng tới Bảo Hà thì dạt vào bờ...Các triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị đã tặng ông danh hiệu "Trấn An hiển liệt", các triều vua nhà Nguyễn sắc phong ông là "Thần Vệ Quốc". Ngày 7/9/1998, Đền Bảo Hà được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Ngày 17/7 âm lịch hàng năm là ngày giỗ ông, khắp nơi náo nức trẩy hội, đến hương nhang, cầu ông phù hộ cho làm ăn dược an khang, thịnh vượng! Vì Ông là vị Thánh trong lòng dân, chiêu mộ được cả người Dao, người Thổ và đặc biệt là người "Nùng áo xanh" khẩn điền, khai mỏ...nên nhân dân rất yêu quí, ngưỡng mộ Ông! Họ dâng Ông quần là áo lượt, y phục mã ngựa, dâng cả các cô tiên theo hầu, bàn đèn thuốc phiện...bộ bài lá, tam cúc, cờ tướng...thôi thì đủ sở thích của con người....
                    
Con nhang đệ tử của ông, vì vậy rất đông, ở khắp mọi nơi...Từ trong đền ra ngoài sân, tấp nập chiếu hầu, tiếng hát nỉ non, đàn ca sáo nhị, trống phách tưng bừng!
                    
Bản hội dâng Ông lễ mặn lễ ngọt, y phục mã ngựa, sớ sách tiền vàng...Mình dâng thêm thẻ bài, lệnh của công ty, cầu cho các con ngựa sắt thượng lộ bình an, đi đến nơi về đến chốn, an toàn tuyệt đối, trên từng cây số!...Đi đâu cũng mua công đức, trước là lễ tạ dâng hương, sau là góp phần tu tạo...Thấy lòng nhẹ nhõm, phấn khởi, sung sướng!...Bữa trưa dọn ra, cả đoàn đói ngấu...Bắp cải luộc, tô nước nghi ngút thơm mùi gừng, đậm đà chút gia vị, thịt gà rang, ngan luộc, lợn sữa quay, kim chi muối, xoài xanh dầm mắm đường tỏi ớt uống rượu, trứng đúc thịt, bánh chưng dền xanh...Ăn như chưa bao giờ được ăn vậy! Tráng miệng bánh gio mật, chè sen thơm ngát, nóng giãy tay...hồn bay bay nghe dư âm cuộc sống!...Sang đền Cô Tân An, dâng Cô Bé, Cô Bơ quần áo, vàng mã, dâng công đức, sớ sách xin Cô cho khỏe mạnh, bình an, Cô thương các Ún Tiểu thông minh dĩnh ngộ, học hành tấn tới...Xin Cô phù hộ cho Khanh gặp quí nhân phù trợ, thành công trong học tập, tiếp tục đạt học bổng ở những năm tiếp theo!
                    
                    
Cả đoàn ra về, hí hửng vui mừng! Chuyến đi đã thành công mỹ mãn, được bao nhiêu việc! Lên xe, cơm no rượu say, nghe nhạc, ngủ khì...Càng chắc chắn mình bị Ông quở, may mà... Hú vía! 2 ngày nhận 6 chuyến xe, trôi chảy trót lọt, cấp cứu tức thì. cháy xe khét lẹt, vẫn giải quyết ngay và luôn < Ơn Trời, vái Phật, các Ngài thương!>...
                         Đường đi gấp khúc quanh co...
                   Tưởng rằng không đến...Ông cho...hết về...
                         Đã đi..đã hứa...đã thề...
                   Lần sau xin nhớ một bề...trung trinh!
                        Linh thiêng...rất đỗi...hiển linh...
                  Ngàn năm tạc dạ...tôn vinh...muôn đời!
......Đàn ca sáo nhị...thú chơi...
Ăn ngon mặc đẹp...vẽ vời bài quân
     Các nàng Tiên.. hát... quây quần
Bàn đèn thuốc phiện...muôn phần....đắm say!
                   Nhưng Ông vẫn nổi tiếng...hay...
               Lộc tài Ông vãi lát đầy...sơn lâm
                  Trời Nam nổi tiếng uyên thâm
              Ông cho một số...cả năm nằm dài!
       Vái lạy Ông! Vái lạy Ông!!!

01 April 2011

Dân ca quan họ Bắc Ninh Qua cầu gió bay ( CD )

Dân ca Quan họ là loại hình văn hóa phi vật thể. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, Quan họ có từ thế kỷ 17, bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các làng xóm. Về mặt sáng tạo nghệ thuật dân ca Quan họ được coi là đỉnh cao của nghệ thuật thi ca. Bắc Ninh có 44 làng Quan họ gốc, đến nay còn gần 30 làng duy trì được lối chơi văn hóa Quan họ 

Dowload  CD " qua cầu gió bay " 

Tình khúc Trịnh Công Sơn - Phần 2: NHỮNG NỐT LẶNG CỦA TÌNH YÊU



... Cuối cùng thì sau khá nhiều lần thất hứa, phần 2 của kỳ Radio nhạc Trịnh cũng được CCX và AR hoàn thành trong một ngày trời Sài Gòn nắng như đổ lửa ... thật lạ là nắng thiệt là nắng như vậy, nhưng lại ...'mần' một kỳ radio dính dáng khá nhiều đến mưa, những ngày mưa, những chuyện tình trong mưa ... và những tình khúc mưa của Trịnh Công Sơn ... Lạ hơn nữa là sau ngày hôm đó, Sài Gòn lại trở chứng nổi mưa tầm tã suốt mấy ngày liền, khiến cho .... đường truyền ADSL cứ tèn tèn, radio làm xong rồi mà mãi chẳng up lên được ...

Nhưng rồi mưa thì cũng tạnh, sáng thứ 2 đầu tuần trời lại rất đẹp như thế này, nắng cũng nhè nhẹ và sau bao nhiêu khó khăn thì AprilRain cũng up xong file Radio ... Mong là dù hôm nay trời ko mưa, nhưng chương trình lần này đủ để gợi lại trong lòng người nghe một chút cảm xúc của những ngày mưa...



+ DOWNLOAD FILE MP3 128KB - TẠI ĐÂY (MEDIAFIRE)
TB: Do đang bị cảm và viêm họng, nên giọng của ARain hơi có vấn đề, hiz hiz.

Nguon : taoxanh.net

Tình khúc Trịnh Công Sơn - Phần 1: DẤU CHÂN ĐỊA ĐÀNG

Như đã hứa từ chương trình vol.3, lần này CCX và AprilRain đã thực hiện một chương trình radio khá đặc biệt,một chương trình chỉ tòan những ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, với những cảm xúc của hai mùa mưa nắng ...


Việt Nam ko có sắc thu vàng rực, ko có mùa đông tuyết rơi ... nhưng chỉ cần mưa và nắng cũng đã đủ để gọi tên bốn mùa ... Cảm nhận cũng ko vì thế mà nhạt đi ... chúng ta hãy cùng nhau lắng đọng lại trong những tình khúc Trịnh trong phần Nắng - DẤU CHÂN ĐỊA ĐÀNG nhé ...

Có một trò chơi nhỏ, các bạn thử đoán tên của các ca khúc mà CCX và AprilRain đã sử dụng trong chương trình radio này xem ... gửi ngay về cho CCX (dùng chức năng tin nhắn nội bộ). Sẽ có một phần quà "cây nhà lá vườn" cho bạn nào đóan chính xác và sớm nhất!

Còn bây giờ, chúng ta cùng đến với chương trình kỳ này nhé

+ DOWNLOAD FILE MP3 128KB - TẠI ĐÂY (MEDIAFIRE)
Xin chân thành cảm ơn anh SAS, anh Gà Choai, anh Phương kính-cận đã giúp đỡ CCX và AprilRain thực hiện chương trình này !


31 March 2011

Cô Tư Ỷ La



Cô Tư Ỷ La cũng vốn là con vua Đế Thích chính cung. Theo lệnh vua cha, cô theo hầu Mẫu Thượng Ngàn tại đất Tuyên Quang. Về sau, nơi Mẫu giá ngự đó, người ta lập đền Mẫu Ỷ La nên cô cũng được gọi là Cô Tư Ỷ La. Tương truyền rằng, Mẫu bà rất yêu quý, thường cho Cô Tư kề cận bên mình. Vậy nên đúng như các tư liệu ghi lại thì chính xác là Cô Tư hầu cận Mẫu Thượng Ngàn chứ không phải cô hầu cận Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai như chúng ta vẫn thường nghĩ. Ngoài ra Cô Tư còn có một danh hiệu khác là Cô Tư Tứ Tổng Tây Hồ. Qua ước đoán, có thể suy ra rằng danh hiệu này là do Cô Tư đã từng giáng hiện tại đất Tây Hồ, Hà Nội rong chơi, và điển hình nhất là hiện nay vẫn có ban thờ Cô Tư tại đình Tứ Liên; một ngôi đình cổ nằm ở gần Phủ Tây Hồ, Hà Nội.

Trong hàng Tứ Phủ Tiên Cô, Cô Tư Ỷ La thường hiếm khi thấy ngự về đồng nên nếu nói về y phục cũng như cung cách khi hầu giá Cô Tư hiện giờ là rất khó. Tuy nhiên theo phỏng đoán của người viết thì có thể khi hầu giá Cô Tư Ỷ La thường mặc xiêm áo màu vàng nhạt, cô có thể khai cuông và múa mồi hầu Mẫu (đây chỉ là ý kiến cá nhân đưa ra để mọi người tham khảo). Hiện nay Cô Tư vẫn được coi là thờ chính cung hầu Mẫu Thượng Ngàn trong đền Mẫu Ỷ La thuộc thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Ngoài ra, như đã nói ở trên, Cô Tư còn được thờ vọng trong Đình Tứ Liên ( xưa gọi là Đình làng Ngoại Châu), phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội. Khi các thanh đồng hầu tráng mạn đến giá Cô Tư, người ta thường thỉnh rằng:

“ Thỉnh mời Cô Tư Ỷ La
Nguyên xưa hầu cận Vua Bà tỉnh Tuyên…”

Hay có một câu thỉnh gắn liền với sự tích Cô Tư dạo chơi Tây Hồ, người ta cũng thường hát:

“Ai về Tứ Tổng Tây Hồ
Hỏi thăm cho tới đền thờ Cô Tư…”
Bài viết :  Dương Minh Đức 
Chỉnh sưa  : mantico ( hatvan.tk )

Dự lễ lên đồng tại Đền Đôi Cô ( Thanh đồng : Diệu Hoa )


BLOG DỰ  LỄ LÊN ĐỒNG ĐẦU XUÂN  2011 PHẦN 1 
Thanh đồng : Diệu Hoa
Bản đền : Đôi Cô ( Yên Phụ )

Giá đồng : Quan lớn  Đệ Nhất / Quan lớn Đệ Nhị thượng ngàn / Quan Đệ Tam / Quang Đệ Ngũ Tuần Tranh / Chầu Đệ Nhị / Chầu Lục / Chầu Mười / Chầu bé / Ông Bơ / Ông Mười / Cô đôi thượng ngàn / Cô bơ / Cô chín Đền Sòng 

Tham gia :  Trí Minh ( Hà Nội ) / Trần Thái Hoàng ( Hà Nội ) / anh Phong ( khăn áo ) / chị Vân ( Nhị ) / phúc ( cô chín ) / Lưu Công Anh Quân / Hoàng Văn Thái ( Tuyên Quang ) / admin ( mantico ) / 























30 March 2011

NGỘ - Đoản văn đặc sắc của Vân Đình Hùng


Ảnh: Đoàn Kỳ Thanh.



Ngộ


Đoản văn của Vân Đình Hùng

Hồi những năm đầu của thập kỷ 70, ga xe lửa của tuyến đường phía bắc phải sơ tán sang ga Đông Anh. Tôi được theo các con nhang đệ tử đi lễ hành hương ở đền Bảo Hà gần Lào Cai, phải tăng-bo bằng các phương tiện khác đến Đông Anh rồi chờ đến tối, tàu mới khởi hành.
Một vấn lễ của một thành viên Hội-quần-tiên được chuẩn bị khá kỹ. Từ bông hoa, lá trầu, quả cau đến các loại bánh, kẹo, rượu và các loại thực phẩm để dùng làm cỗ mặn. Đi lễ hành hương thường là những người thân, có quan hệ gia đình hoặc bạn bè cùng cánh; nhưng chủ yếu là những người có đồng, căn cao số nặng phải đầu hàng bốn phủ và được “các cô, các cậu” chấm lính bắt đồng. Những người này thường đi theo để giúp việc phụ lễ, bày biện lễ vật trên các ban thờ và hầu dâng.
Tiệc mặn được làm khá công phu, có người còn đem sẵn cả một con lợn sữa đã cạo lông, mổ phanh ra, ướp các loại gia vị, kèm theo gần một yến than Đục-Khê và một chai dấm trộn lẫn mật ong dùng để quay lợn tại nhà đền.
Đến nơi sau tuần trà thuốc, nghỉ ngơi, ai vào việc nấy. Người thì cắt tiết làm gà, người thì chuẩn bị chỗ để quay lợn. Con lợn được đặt úp lên một cái mâm sạch, người đầu bếp già đi theo đoàn cẩn thận lấy chai mật ong trộn với dấm chua cứ thế rót dọc sống lưng con lợn. Hỗn hợp dấm mật ong lan đều, phủ lên da con lợn sữa trắng hếu một lớp màu vàng sền sệt. Xong việc, con lợn được hong gió cho se bớt, rồi được lồng vào một cái xiên hình chữ U có chuôi bằng ống sắt trông tựa như cái gảy rơm ở quê. Hai cái trạc chữ V bằng cây tươi chặt trong vườn được đóng xuống, than Đục-Khê được đốt đỏ rực. Chú lợn con mắt nhắm nghiền được quay qua quay lại trên ngọn lửa than hồng rực, một lúc sau, những giọt mỡ chảy xuống, bắt lửa kêu xèo xèo. Chừng gần một tiếng đồng hồ, lợn chín, da vàng rộm, ửng màu cánh dán. Cứ thế, con lợn được đặt lên một cái mâm đồng đánh sáng choang và được bưng lên đặt lễ tại công đồng. Các món khác cũng vừa làm xong, và được đơm, bày rất khéo trông thật thích mắt. Các cô đồng (thường là các cậu hoặc các ông con trai) là những người buôn bán giàu có, làm ăn đang hái ra tiền mới dám chuẩn bị một vấn lễ thịnh soạn như vậy.
Mâm lễ tam sinh cúng Mẫu và hội đồng tứ phủ gồm đủ các sơn hào hải vị. Lợn, gà, giò lụa, chả quế, bóng, vây, mực... Mâm lễ cúng sơn trang gồm đủ cơm lam, thịt thính, khế chua, măng vầu, 12 con cua đồng hấp chín đỏ nhưng nhức, ốc nhồi hấp với lá bưởi, gừng cay, chanh tươi, ớt quả được bày thật công phu. Hương nến đã thắp lên. Trong không khí trang nghiêm, ông thày (thường là các cung văn cao tuổi đàn anh trong nhóm cung văn hát dâng văn khi hầu đồng) cất giọng ê a trang trọng tuyên sớ, dứt lời, dàn nhạc cử bài nhạc theo điệu Lưu thủy, thường dùng khi hành lễ. Các con nhang, chủ tế sì sụp khấn vái, cầu xin đủ thứ trên đời, chủ yếu là cầu cho được mua may bán đắt, đi tươi về tốt, đi một về mười... Hết tuần hương, cỗ được hạ xuống để mọi người thụ lộc. Ăn uống xong, ai lại vào việc nấy, bày biện hoa quả trên công đồng, cung đệ nhị, hậu cung, lầu cô, lầu cậu, v.v...chuẩn bị cho vấn lễ hầu đồng.
Cô đồng bắc ghế hầu thánh trong vấn lễ hành hương này sau khi dọn mình (tắm rửa) sạch sẽ, mặc bộ đồ lót-mình-hầu màu trắng và bắt đầu trang điểm. Các đồng cô nam giới thường xưng chị em với nhau, họ luôn coi mình là giới nữ, nên trang phục họ chọn để mặc cũng là quần áo nữ. Có người còn độn ngực, mặc áo trong như đàn bà vậy. Nhất là các đồng cô được mời làm hầu dâng thì rất điệu đàng. Trong lúc trang điểm để chuẩn bị hành lễ, họ nói với nhau rất nhẹ nhàng, tô môi, kẻ mắt cho nhau, hoặc cài lại cái khuy áo, trông thật thuận hòa.
Hồi đó còn chiến tranh nên việc lễ bái thật công phu, vất vả. Nhân đức tin của họ đã vượt qua mọi khó khăn để đạt được ý nguyện là được dâng mình cho đấng hư vô. Để có được vấn lễ tố hảo, chủ lễ phải đăng ký trước vớiđồng đền và các quan chức địa phương, xin được chuông trống khi làm lễ. Thậm chí họ còn mời dân thôn và các ông trưởng thôn, trưởng bản đến thụ lộc và dự lễ.
Khoảng tám chín giờ tối, vấn lễ bắt đầu tiến hành. Các cung văn tấu nhạc, ban nhạc có bốn người. Một người đánh đàn nguyệt, một người thổi tiêu, sáo, một người gõ phách, một người đánh trống. Người đánh đàn và gõ phách thường thay nhau hát khi dâng văn các giá thánh về ngự khi hầu đồngVấn lễ hầu đồng thường kéo dài từ sáu cho đến tám tiếng đồng hồ, có giải lao ở giữa thời gian.
Cô đồng chủ lễ chắp tay xin phép mọi người để được hầu thánh và mời bốn đồng cô được chọn làm hầu dâng vào vị trí. Nhạc nổi lên, đèn nến lung linh, hương thơm ngào ngạt, cô đồng trong tư thế ngồi, chùm tấm khăn đỏ thêu rồng phượng lên đầu rồi đảo người cùng với tiếng hú hoang dã, một lúc sau, tấm khăn đỏ được hất tung ra sau khi lời cung văn mời ông thánh đầu tiên về ngự đồng vừa dứt.
Thứ tự hầu đồng được tuân theo nghiêm ngặt. Đầu tiên phải mời các giá Mẫu về ngự, tiếp đó là các Quan lớn rồi giá các Chầu, các ông Hoàng, các Cô và cuối cùng là các Cậu. Có người hầu gần hết các giá, nhưng khi hầu các giá Mẫu, thông thường họ chỉ hầu ba giá Mẫu: Mẫu đệ nhất, Mẫu Thoải, rồi hầu đến Mẫu bản địa (thí dụ như Mẫu Đông Cuông, Mẫu Phủ Giầy...). Khi Mẫu ngự, cô đồng nhập thần, khoan thai, nhẹ nhàng, âm thanh phát ra khe khẽ. Tiếng đàn văn sang trọng lơi buông những âm giai cung đình. Mẫu ngự không lâu, không truyền phán gì, chỉ nhìn sang trái, sang phải như chứng cho tất cả các con nhang đệ tử của Người đang khâm trực đắm say suốt vấn hầu, với đôi mắt ngưỡng mộ, tự tin chờ đợi...
Trong các giá quan lớn ngự đồng, ngôi thứ ba được gọi là Quan Lớn Tam Phủ, khi ngự ngài mặc áo trắng thêu thủy ba sóng gợn ở gấu áo và một ổ rồng chầu bố cục uyển chuyển thành hình tròn trước ngực. Việc thay khăn chầu, áo ngự của các giá được diễn ra ngay tại nơi hành lễ trong tư thế ngồi; bốn người hầu dâng chuẩn bị rất nhanh, chính xác những trang phục cần có, loáng một cái, cô đồng như hóa thân thành một ông thánh khác so vớigiá trước đó đã xe giá hồi cung.
Âm nhạc vẫn dìu dặt chờ đợi. Các bà, các cô đi lễ hành hương bị cuốn hút vào không khí vừa trang nhã vừa siêu thoát linh thiêng. Thời gian như được thay đổi đơn vị đo đối với họ.
Trang phục đã xong Quan Lớn Tam Phủ cầm một bó hương to do người hầu dâng, dâng trong tư thế cúi đầu, ngài bắt đầu khai cuông và hành lễ. Rồi ngài cầm thêm tấm nhiễu đỏ của người hầu dâng khác cũng cúi đầu dâng lên, tay phải giơ cao bó hương nghi ngút nhả khói, bó chân hương được bọc trong một đầu tấm nhiễu đỏ, tay trái chống nạnh, giữ đầu kia của tấm nhiễu, mắt ngài nhìn thăm thẳm vào cõi hư vô, hướng tới các bức tượng đặt trên ban thờ trong hậu cung. Thần sắc như chuyển, như say làm khuôn mặt ngài rạng rỡ dị thường.
Trường đoạn múa thanh long đao thật uy nghi hoà cùng lời văn ca ngợi công đức ngài đã có công dẹp giặc được cung văn dâng thành kính cùng tiếng nhạc nẩy nhịp quân hành. Thỉnh thoảng tiếng hắng giọng oai vệ của ngài phát ra làm mọi người thấy rõ cái uy của ngài. Thanh long đao quay tít, quay tít, lúc tiến, lúc lui, đường đao tỏ rõ bản lĩnh của một đấng bậc đứng đầu bát vạn hùng binh. Các con nhang ngây ngất chiêm ngưỡng...
Khi ngài trao thanh long đao lại cho người hầu dâng, và ngồi xuống cạnh một chồng gối xếp bọc gấm, âm nhạc trùng lại khoan thai. Ngài bắt đầu làm việc quan, hầu dâng cúi đầu dâng thuốc, dâng trà (trà sen thơm ngát vừa pha để cúng khi giá ngài về ngự), ngài vỗ gối nghe văn, thưởng thức lời ca tiếng nhạc, phong độ ung dung. Thỉnh thoảng có những câu hát ca ngợi công đức ngài thật hay, tay trái ngài vỗ gối, tay phải ném ra một số tiền có giá trị không nhỏ để thưởng cung văn. Người cung văn dạ một tiếng nhỏ, và tay đàn hình như dẻo hơn nhập cuộc. Sự phối hợp nhịp nhàng của người đánh trống làm cho không khí ban thưởng càng đậm đà. Khi ngài vỗ gối, những tiếng cắc gõ vào tang trống dồn dập, tiền thưởng tung lên là những tiếng tùng oà ra, vỡ tung trong không khí hừng hực của buổi hành lễ.
Cảm thấy sự hiện diện trên trần gian như thế đã đủ, ngài ngồi xếp bằng, mắt lim dim rồi bất thần tay ngài tung mạnh tấm khăn đỏ chùm lên đầu, tiết tấu nhạc cuống quít lạ thường, người cung văn nhả câu “Thánh giá hồi loan”. Các cô hầu dâng thì “Nam mô” rối rít “Tấu lạy” rối rít khẩn cầu mời gọi các giá thánh về ngự. Bốn giọng hầu dâng như dàn hợp xướng bốn bè cùng cất lên vừa như khẩn khoản, vừa như nũng nịu, cho đến khi cô đồng ra dấu tay, ông cung văn nhìn thấy liền dâng văn mời giá thánh vừa được cô đồng ra dấu. Rồi nét nhạc lại khoan thai dìu dặt mời gọi, lời văn thỉnh mời các giá thánh về ngự đồng được dâng trang trọng, đến khi cô đồng gật đầu, rùng mình tung tấm khăn phủ diện ra thì cung văn bắt đầu bản văn của giá đó tiếp theo vừa chợt hiện về ngự đồng. Khăn chầu áo ngự được thay đổi cho phù hợp.
Trong các hàng quan lớn, các cô đồng hay chọn hầu Quan Lớn Tuần tranh, Quan Lớn Tam phủ, Quan lớn Triệu Tường còn các quan lớn khác ngài ít về ngự đồng. Có một số ít cô đồng sát căn Quan Lớn Trần Triều (Trần Hưng Đạo) khi hầu, giá ngài vẫn về ngự. Mỗi phủ (trong tứ phủ) thường có mười hai ngôi, từ ngôi đệ nhất tới ngôi thứ mười hai, có phủ gọi ngôi thứ mười hai là “bé”, như Cô Bé, Cậu Bé v.v... Các giá hầu khác nhau, cô đồng lại múa với các loại binh khí khác nhau. Khi thì dùng một thanh long đao to bằng gỗ, có lúc lại là đôi hèo hoa với chuỗi lục lạc bằng đồng phát ra âm thanh vui tai, hoặc đôi kiếm gỗ..., tất cả vật dụng trợ giúp cho cuộc hành lễ đều là đồ thờ đặt trong đền, trong phủ.
Sau các giá Quan lớn là các giá Chầu. Các giá chầu có Chầu đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ, chầu lục... Các giá ở ngôi thứ sáu là các giá thượng, sơn trang, nên dâng văn cho các giá này nhạc có tiết tấu sôi động được xây dựng trên nền làn điệu Xá - một trong ba làn điệu chủ yếu: Dọc, Cờn, Xá dùng rất biến hóa trong hát dâng văn hầu đồng. Nét nhạc mang âm hưởng của dân ca các dân tộc vùng núi phía bắc hay vùng tây nguyên nước ta. Người hầu đồng tay múa mồi lửa, miệng ngậm miếng trầu nhai dập, đứng dậy nhún nhảy theo điệu nhạc, tay vung vẩy chiếc khăn voan xanh lục, thỉnh thoảng cất tiếng hú dài. Một lát sau, hầu dâng đốt đôi mồi lửa cháy phừng phừng, cô đồng kẹp mồi lửa vào giữa hai ngón tay để sấp, rồi bắt đầu điệu múa với mồi lửa theo tiếng nhạc và những tiếng hú dài gọi bầy. Nhạc càng nhanh cô múa càng dẻo. ánh lửa từ đôi mồi (làm bằng giấy bản vặn vấn thừng vào nhau được nhúng vừa khéo trong nến nóng chảy) khi lên, khi xuống phản chiếu ánh bạc trong các bộ xà tích, bộ khuy hình con bướm đính trên trang phục và ánh mắt long lanh siêu thoát của cô đồng làm thành một không khí huyền ảo mê hoặc lòng người. Chầu vui bao nhiêu, mặt đổi diện bao nhiêu, sau vấn lễ cô đồng nhiều lộc lắm. Khi về nhà mà được đắc ý nguyện cầu, lộc lá Chầu cho chồng chất, cô đồng lại sắm một lễ tạ to lắm tại bản đền hay một đền nào đó để tạ Người.
Vũ điệu dân gian như một trường đoạn của vai diễn linh thiêng với sự trợ giúp của một tâm linh ổn định, hướng thiện, hướng tới một cõi-tâm-linh vừa được xác lập.
Cõi tâm linh của cô đồng với nhân đức tin đang được lớn dần, bùng lên đột khởi, như được trợ giúp bởi quyền năng vô biên của một ngôi vị vô hình tận ở xa xăm. Người hầu đồng được đặc cách nhận năng lượng vũ trụ truyền tới.
Sau những cơn thăng hoa bạo liệt của điệu múa mồi lửa, Chầu lục quỳ xuống, nhưng thân hình luôn di chuyển, lúc sang phải, lúc sang trái, lúc phía trước, lúc lại ngả về phía sau. Người hiến nguyên một gói thuốc lào Vĩnh Bảo (to bằng ruột cái bánh gai Ninh Giang) vào miệng, nhai cùng miếng trầu đã ứa nước đỏ nồng. Vẫn cái thân ngúc ngoắc, Chầu phát ra những tiếng hú nhẹ nhàng, hun hút sâu, như khoan vào núi đá rậm rạp vô hình. Người bắt đầu ban phát lộc cho các hầu dâng, phát lộc cho những người đang dự lễ, lần lượt ai cũng được một phần lộc của Chầu. Lộc Chầu ban cho là những phần bánh xinh xắn, những túm hoa quả tươi được bao gói, buộc tỉa công phu. Riêng “cái ghế của Chầu”, Người dành riêng miếng trầu đang nhai trong miệng kèm một bông lan hay một bông hồng đỏ thắm xinh xắn. Gói Lộc-Chầu được gói bằng một mảnh giấy điều và được đặt cẩn thận lên ban thờ cạnh cây nến sáng trưng. Hết vấn lễ cô đồng mang về nhà đặt lên bàn thờ tại gia mong Lộc Chầu linh nghiệm, hiển hiện trong doanh thương.
Khi Chầu xe giá, mắt Người nhắm lại, hai tay chắp cao trước mặt, miệng cất tiếng hú nhẹ. Hầu dâng nhanh tay phủ tấm vải đỏ lên đầu. Cung văn vẫn cái nhịp cuống quít nhả lời “Thánh giá hồi loan”. Mặc dù đã hát dâng văn rất nhiều vấn hầu, nhưng đến lúc “Xe giá”, cái cuống quít của tay đàn, tạo nhịp điệu gấp gấp, vẫn như bất thần đến với người cung văn già dặn, ngơ ngác.
Màu sắc trang phục (thường được gọi là khăn chầu áo ngự) của cô đồng tôn trọng ngôi thứ trong mỗi phủ. Màu đỏ cờ là ngôi đệ nhất, màu xanh lá cây tươi là ngôi thứ hai, màu trắng là ngôi thứ ba, màu đào phai là ngôi thứ chín, và ngôi út lại là màu trắng với các đăng ten viền mép áo sặc sỡ. Cũng có cô đồng áp đặt những ý thích riêng của mình khi may khăn chầu áo ngự, nhưng nhìn chung các màu cơ bản cho các ngôi thứ luôn được tôn trọng.
Sau các giá Chầu là các giá Ông Hoàng. Cũng mười hai ngôi nhưng người ta lại gọi khác đi. Ông Hoàng Đệ Nhất, Ông Hoàng Đôi, Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Chín, Ông Hoàng Mười. Mỗi giá ông hoàng đều có đền thờ chính. Tại đền Bảo Hà, Lào Cai là đền thờ ông Hoàng Bảy. Đền thờ Ông Hoàng Mười ở Nghệ An...
Có hai giá Ông Hoàng được hầu rất cẩn trọng, từ khăn chầu áo ngự cho đến lộc ông hoàng, việc chuẩn bị công phu lắm. Khi Ông Hoàng Bảy về ngự giá, ngài mặc áo dài kép hai lớp, lớp trong là áo dài trắng, lớp ngoài là áo dài đoạn màu xanh lam, mặc như vậy được coi là đúng cách sang trọng. Chỉ những cô đồng khá giả, coi trọng việc lễ bái mới dám đầu tư bộ khăn chầu áo ngự cầu kỳ như vậy. Các cô đồng nghèo khi hầu thánh chỉ mỗi một cái áo dài đỏ hoặc thêm một cái xanh, cái trắng, rồi thì cũng vẫn hầu qua các giá thánh, hoàn thành vấn lễ của mình.
Cách thức làm việc quan của các giá Ông Hoàng cũng tương tự như các giá Quan Lớn, nhưng sự oai vệ có phần giảm đi đôi chút. Lúc ngài làm việc quan, hầu dâng dâng trà sen cúng (tuần trà mới khi giá ngài về ngự), dâng thuốc lá được phết nước sái thuốc phiện. Các điếu thuốc được cắm chân hương vào phía đầu lọc, được phết, tẩm nước sái rồi cắm vào một vật mềm đặt trên đĩa, làm thành một món lễ vật lạ mắt đặt trên công đồng. Ngài thườngngự hai cho đến ba điếu, cứ hút đến nửa chừng, ngài lại ban cho hầu dâng hoặc bất kỳ ai ngài muốn. Khói thuốc có nước sái phết ngoài thơm ngầy ngậy làm ngơ ngác các con nhang đang lễ hành hương theo ghế Ông. (Khi bắc ghế hầu thánh, các giá thánh mà người hầu sát căn được gọi là ghế của vị thánh đó, thí dụ ghế Chầu, ghế Ông, ghế Cô...). Trà sen dâng lên, lời văn tao nhã như gió thoảng, văn dâng Ông Hoàng có cả những thú chơi của người trần, có lúc chuyển sang làn điệu hát ả đào, lời ca các thày mượn trong các bài ca trù truyền thống hoặc tự soạn lấy lời. Nội dung dựa vào những đặc trưng của giá Ông, ca ngợi công đức lồng trong những thú chơi tao nhã và những cảnh sắc bồng lai nơi tiên giới trong sự tưởng tượng sáng tạo của người nghệ nhân. Nghe văn lúc làm việc quan cũng phải có kiến thức, các cô đồng thường được bổ xung các kiến thức này qua các lần bắc ghế hầu thánh của chính mình hoặc các lần khâm trực các giá thánh ở những lần đi lễ hành hương. Họ quan sát kỹ và nhớ những động tác chuẩn mực của những người được coi là Đồng Linh Bóng Hiển, đứng đầu trong Hội-Quần-Tiên.
Lộc Ông Hoàng Bảy ban phát là những điếu thuốc lá được bày trên mâm lễ, con nhang đệ tử có người hút ngay tại đền, có người gói cẩn thận đem về. Phát lộc tiền là cách phát lộc phổ biến khi hầu đồng trong một vài giá quy định. Ngài ban phát khắp lượt, ai cũng được một phần lộc nhỏ do những người hầu dâng nhận từ tay ngài đưa tới hoặc do một vài người được ngài chỉ định đem lộc phân phát. Quan niệm khi phát lộc ở các giá hầu thánh là: Tán lộc ra rồi thu lộc về (Tiểu tiền suất, Đại tiền nhập). Các con nhang đệ tử có dính dáng đến ả tiên nâu thường quý các món lộc do Ông Bảy ban phát lắm. Có người còn xin hai suất cho một ghế Ông vắng mặt.
Ông Hoàng Mười lẫm liệt, oai phong trong trường đoạn múa thanh long đao (chỉ có hai giá có múa thanh long đao là giá Quan Lớn Tuần Tranh và giá Ông Hoàng Mười. Có lẽ các ngài đã từng là võ tướng linh hiển của bát vạn hùng binh một thời). Nếu quan sát kỹ, cách múa thanh long đao của hai giá thánh có sự khác biệt trong động tác, điều này nói lên sự công phu của người bắc ghế hầu thánh. Cũng có khi do sự theo dõi chăm chú nhiều lần qua những vấn hầu, rồi khi chính mình được hầu bóng Ngài, trong lúc thăng hoa, động tác tự nhiên nhanh nhẹn lạ thường như có lực lượng siêu nhiên nào ẩn náu phía sau, hay ẩn náu ngay trong những đường đao vậy.
Khi về ngự giá, Ông Hoàng Mười mặc áo dài gấm màu hoàng oanh có các ổ rồng thêu thất thể rất sang trọng. Khăn xếp ngài đội cũng được viền một khăn nét màu vàng cùng loại thêu lưỡng long chầu mặt nguyệt. Động tác của ngài khi làm việc quan sang lắm, mặt ngài đổi diện, trông thật lạ lùng, không giống khuôn mặt ngày thường của cô đồng. Tinh hoa như được phát tiết qua ánh mắt nhìn, qua giọng nói sang sảng khi ngài truyền phán. Lúc ngài làm việc quan, dứt khoát phải mở một chai Sâm-banh, ngài ngự ba lần trong lời văn dâng trang trọng ở chén đầu:
Hội quần tiên chuốc chén rượu đào,
nhất tuần sơ dâng lên bệ ngọc.
Dâng lên cúng Mẫu, các Cô dâng mời, rước Ông Hoàng Mười xơi
và ở chén thứ hai
Dâng lên, dâng lên rượu mời, nhị tuần xơi.
Rước Ông Hoàng xơi
và ở chén thứ ba
Nhất tuần sơ, nhị tuần á ông đã cạn rồi.
Tam tuần tay dâng lên bệ ngọc. Dâng lên cúng Mẫu,
các Cô dâng mời, rước Ông Hoàng Mười xơi.
Lời văn dâng Ông Hoàng Mười, lúc Ngài ngự được coi là sang trọng nhất, Ngài sành điệu trong thưởng lãm mọi mặt, từ cung cách đến cử chỉ nhỏ, từ giọng nói đến cái liếc nhìn, phẩy tay... Văn dâng Ngài trong tiết tấu khoan thai nhã nhặn, lời ca óng lên vẻ kiêu sang của ngôi vị Ngài. Có khi cô đồng bắc ghế hầu thánh, lúc hầu giá Ngài yêu cầu Pháp sư (là những cung văn có thể viết sớ, tuyên sớ) hát những đoạn mà Người thích, được phán truyền như người trần vậy. Và đặc biệt khi Ngài xe giá, Ngài nhắc nhở với cung văn là phải chọn đúng các cô (bát bộ các cô sơn trang, thập nhị các cô tiên nàng trong các giá Cô) mà Người ưng để đón Ngài hồi loan.
Lời ca ở câu vấn như sau :
Ông Hoàng ra về gối xếp ai mang ?
Hèo hoa ai vác, ngựa Ông Hoàng ai coi.
Lời ca ở câu đáp sẽ là :
Ông Hoàng ra về gối xếp Cô Bơ mang,
Hèo hoa Cô Chín vác, ngựa Ông Hoàng Cô Bé coi.
Nghe xong Ngài hoan hỉ lắm, trước khi tung khăn phủ diện trùm lên đầu xe giá, Ngài tung một nắm tiền lộc về phía cung văn trong tiếng ca rối rít “Thánh giá hồi loan”.
Hết các giá Ông Hoàng là đến thời gian giải lao giữa vấn hầu. Người khâm trực buổi lễ bừng tỉnh, các cô hầu dâng cũng như cô đồng bắc ghế hầu thánh đều thoáng lộ chút mệt mỏi và lo toan. Trong đầu họ đang hiện ra những bước tiếp theo cần làm, hoặc sắp xếp lại khăn chầu áo ngựkhăn nét, đai, mạng... Những cái đã dùng rồi gấp gọn lại cho vào vali cất đi, để lại những thứ cần dùng cho giá Cô và giá Cậu sắp tới.
Tiếng trống nhập cuộc dóng dả cất lên để lấy lại không khí siêu thoát thăng đồng của đoạn trước lúc nghỉ. Lời văn dâng lại ngọt ngào lơi buông nhàn nhã thỉnh mời các giá Cô về ngự đồng. Khi hầu các giá Cô, có ngôi vị, người bắc ghế có thể hầu hai ba giá cùng ngôi, nhất là giá Cô Bơ, Cô Chín và Cô Bé. Cô Bơ có thể là Cô Bơ thoải, hoặc là Cô Bơ thác. Cô Chín khi là Cô Chín đền Sòng, Cô Chín Giếng (đền Giếng). Cô Bé Suối Lân, Cô Bé Thác Bờ, Cô Bé Bắc Lệ...
Các giá Cô về ngự, mặc dù là đồng nam thì nữ tính vẫn được thể hiện rõ nhất ở trường đoạn này. Ngoài các việc đã thành bắt buộc mỗi khi các giá về ngự như: khai cuông bằng hương, hành lễ trong điệu Lưu Thủy Kim Tiền... đến khi các giá Cô làm việc cũng thật khác nhau, đặc biệt là các giá Cô Chín. Khi thì Cô Chín dệt gấm thêu hoa với các động tác thật mềm mại, thật duyên dáng e lệ. Đây không phải là các động tác trên sân khấu có gì hời hợt mà là sự phân thân nhập đồng, động tác như thực như mơ. Hai cô hầu dâng dâng tấm lụa tưởng tượng, và cũng trong tưởng tượng Cô Chín làm động tác lấy kim, xâu chỉ và bắt đầu thêu. Lời văn dâng hòa cùng động tác của giá Cô nghe huyền ảo lạ thường.
Cô Chín dệt gấm thêu hoa,
Cô thêu non thêu nước thêu ra con người, thắm tươi...
Cô thêu con Long, con Ni, con Quy, con Phượng...
Đằm mình trong trang phục màu phấn hồng đào phai, với chiếc khăn nét cùng màu duyên dáng, hình bóng một Cô Chín hiển linh đang hiển hiện trước mắt con nhang đệ tử. Đôi môi đỏ lựng say sưa. Đôi tay giá Cô thoăn thoắt những động tác thành thạo và thoát tục, tạo sự linh thiêng cần có trong một vấn lễ. Khi trường đoạn dệt gấm thêu hoa kết thúc, cô ngồi truyền phán và phát lộc. Lộc Cô Chín cũng được người đi lễ hành hương quý lắm, theo họ, nó sẽ mang lại may mắn trong doanh thương, sự vui vẻ trong giao đãi bạn bè, gia đình. Lúc phát lộc của các giálà vui nhất, đời thường nhất. Những khuôn mặt con nhang hoan hỉ như trẻ lại với tuổi thơ mình đã nằm lại nơi quê cha gần bốn chục năm hay hơn nữa. Các bà, các cô, các ông con trai, các cậu... nhao về phía giá Cô xin lộc. Họ nhất loạt hoặc kẻ trước người sau : “Lạy Cô, Cô thương họ Nguyễn, (họ Trần, họ Lê, họ Phạm...) chúng con, Cô rón tay làm phúc, Cô tán lộc ra, Cô thu lộc về. Lạy Cô...”, cứ như thế không gian ngôi đền như bừng tỉnh náo nức, tuổi thơ của mỗi người và của mọi người chen vai thích cánh trở lại. Ôi ! thật là kỳ diệu!
Phần lộc Cô Chín phát vẫn chỉ là những gói bánh kẹo bình thường được bao gói xinh xắn khéo léo, thảng hoặc là những phong bao màu đỏ bên trong có tờ giấy bạc mới tinh gấp làm ba.
Khi Cô Chín xe giá, cái không khí náo nức vẫn còn đọng lại trên khuôn mặt hoan hỉ của các con nhang đệ tửmãi.
Tiếp sau giá Cô Chín là đến các giá Cô Bé. Các giá Cô Bé về ngự thường nũng nịu, hay dỗi hờn. Cô Bé mở quán bán hàng là hình tượng đặc trưng của giá Cô Bé khi về ngự đồng. Cô bán hàng nhưng thật ra là Cô đang phát lộc cho các hầu dâng và các con nhang đệ tử khâm trực Cô, xin lộc Cô. Làn điệu dùng trong văn dâng cô theo điệu Xá thượng, lúng liếng.
Các giá Cậu là phần cuối cùng của vấn lễ. Nhưng các cô đồng nữ mới hay hầu giá Cậu, còn các đồng nam thì ít người hầu giá Cậu. Khi giá Cậu về ngự đồng, Cậu mặc áo trắng ngắn, cổ lá sen, bên ngoài khoác thêm áo giống như áo Ghinê gấm đỏ. Đầu Cậu đội khăn rìu màu đỏ, buộc khéo léo, trông thật nghịch ngợm, trẻ trung. Các bà các cô đồng đứng tuổi sát căn Cậu Hoàng, khi hầu đổi diện, trông họ trẻ đến lạ lùng. Điều này khó giải thích lắm.
Vấn lễ kết thúc, cô đồng bắc ghế hầu thánh trở về với con người mình ở đời thường vẫn trang phục lót-mình-hầu trắng, chưa thay. Nét mệt mỏi phảng phất, nhưng nổi bật trên khuôn mặt là sự mãn nguyện như cô vừa xong một việc lớn. Khuôn mặt thanh thoát hẳn ra, dấu ấn của nhân đức tin hiện rõ trong từng câu nói, điệu cười.
*
Khoảng năm 1976, sau khi đất nước thống nhất một năm, sự giao lưu giữa hai miền không những ở các mặt xã hội mà còn có trong Hội-Quần-Tiên. Có người chuẩn bị cẩn thận rồi vào tận đền thờ các giá tứ phủ để bắc ghế hầu thánh mãi tận Sài Gòn. Trong đó cung văn hát pha tạp không thuần khiết như ngoài Bắc, để kiệm hơi, họ dùng cả tăng âm, micro để dâng văn...
Cung văn chân truyền ở ta hiện còn không nhiều, giọng hay lớp trước phải kể đến ông Đan, ông Đạt, ông Khiêm, đặc biệt ông Cao ở thôn Bằng Sở. Hiện nay, lớp cung văn trẻ, nhiều người có học vấn, được đào tạo chính quy về nhạc cụ tại các nhạc viện nổi tiếng, sẵn có giọng đẹp cũng theo nghề hát cung văn. Nhưng có lẽ cái hồn ngơ ngác, cuống quít khi xe giá hồi loan của các giá thánh thì họ đánh mất, hay chưa thấy nó hiện ra, thật lấy làm tiếc thay.
Tôi có vinh hạnh được thu giọng hát dâng văn của nghệ sỹ Bạch Phượng, ông Phụng, ông Đan, ông Cao hồi những năm đầu thập kỷ 70, ba mươi năm qua, cuốn băng ấy đã xuống cấp do kỹ thuật bảo quản và thời tiết khắc nghiệt của ta. Giá mà các bản văn dâng hầu thánh được thu tại chỗ, và được lưu giữ trong đĩa CD với kỹ thuật số hiện nay... tôi cứ thầm ước như vậy. Một số băng tư liệu về các vấn lễ hầu thánh đã được phát trên các phương tiện thông tin đại chúng, lượng thông tin quá ít ỏi, bộc lộ sự cảm nhận của người làm chương trình thiếu thành tâm với công việc tứ phủ, các góc nhìn của họ thiếu sự tìm tòi tận cội nguồn tâm linh của những người bắc ghế hầu thánh trong mỗi vấn hầu.
*
Hàng năm, Hội-Quần-Tiên tổ chức các vấn lễ hành hương về các đền phủ danh tiếng, trên sơn lâm hoặc ở đồng bằng châu thổ sông Hồng. Xuân thu nhị kỳ, “tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ”. Người khá giả, đốn ngộ linh hiển, một năm bắc ghế hầu thánh hai vấn trong tháng hội Cha và hội Mẫu. Phải như thế cõi tâm linh của họ mới an, yên chí làm ăn, hy vọng, chờ đợi sự linh nghiệm của các giá thánh đã về ngự trong vấn lễ.
Tôi không phải người của Hội Quần Tiên, nhưng cứ đến cuối tháng hai, trong tiết Xuân phân, mưa phùn bay nhè nhẹ, thế nào tôi cũng đi ngang qua các đền thờ Mẫu dọc sông Hồng, địa phận xã Đại Lộ, Thường Tín, Hà Tây để nghe từ xa tiếng trống, tiếng đàn cung văn văng vẳng trong không gian bao la của trời đất, con Lạc, cháu Hồng. Rồi cũng tự thấy lòng mình như được giải thoát, đốn ngộ, thanh thản...
Hạ Đình, Thăng Long - Thu Tân Tỵ.

*Bài viết do tác giả Vân Đình Hùng gửi riêng cho Nguyễn Xuân Diện-Blog để tặng bạn đọc.Xin chân thành cảm ơn tác giả!


Nguồn : bài viết blog Nguyễn Xuân Diện

Dự lễ lên đồng tại Đền Đôi Cô ( Thanh đồng : Diệu Hoa ) P2



BLOG DỰ  LỄ LÊN ĐỒNG ĐẦU XUÂN  2011 PHẦN 2 
Thanh đồng : Diệu Hoa
Bản đền : Đôi Cô ( Yên Phụ )

Giá đồng : / Chúa Đệ Tam ( Lâm Thao )/ Chúa Thác Bờ ( Hòa Bình ) /Chầu Đệ Nhị / Chầu Lục / / Chầu bé / Cô đôi thượng ngàn / Cô bơ / Cô chín Đền Sòng 

Tham gia :  Trí Minh ( Hà Nội ) / Trần Thái Hoàng ( Hà Nội ) / anh Phong ( khăn áo ) / chị Vân ( Nhị ) / phúc ( cô chín ) / Lưu Công Anh Quân / Hoàng Văn Thái ( Tuyên Quang ) / admin ( mantico ) / 










Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa[2]. na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất bà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ, Ta Bà Ha.

Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng . Hàng Ông Hoàng gồm:

01- Ông Hoàng Cả ( Thượng Thiên )
02- Ông Hoàng Đôi Thượng Ngàn ( Người Nùng )
05- Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc
06- Ông Hoàng Tư
07- Ông Hoàng Năm
08- Ông Hoàng Bảy ( Bảo Hà )
09- Ông Hoàng Bát

Tứ phủ Thánh Cô

Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
3 - Cô Tư Ỷ La
7 - Cô Bảy Kim Giao
10 - Cô Mười mỏ ba
11 - Cô bé Thượng ngàn ( cô bé Đông Cuông /Cô Bé Suối Ngang ( Hữu lũng ) / Cô bé Đèo Kẻng ( Thất Khê ) / Cô Bé Tân An ( Lào cai ) / Cô bé Cây xanh ( Bắc Giang ) / Cô bé Nguyệt hồ ( Bắc Giang ) / Cô bé Minh Lương ( Tuyên Quang ) / Cô bé Cây xanh ( Tuyên Quang ) / cô bé Thác Bờ ( hòa Bình ) / Cô bé Thoải phủ

Bánh Xưa ( Hà Nội )

Bánh Xưa ( Hà Nội )
Cung cấp Bánh khảo - bánh in huế truyền thống / 0965111991