09 March 2011

Dự lễ mở phủ tại Bản đền Mẫu Đầm Sen




Đền Mẫu Đầm Sen 
-----------------------------------------------------------------------------
Đền Mẫu đầm Sen trước đây nằm kề bên dòng sông Tô, bên này là đầm nước rộng lớn thuộc làng Định công Thượng -  xã Định Công (xưa thuộc hạt Thường Tín) nay là quận Hoàng Mai. Tên gọi đền Mẫu đầm Sen là bởi ngôi đền này là chốn cung thờ Đức Thánh Mẫu Bàn Cảnh chốn đầm sen, quanh năm sen mọc tươi tốt, mùa hạ sen nở hoa, hương thơm toả ra ngào ngạt. Ngôi đền được xây dựng từ thời vua Hùng vương thứ 17. Tương truyền, trong một chuyến vi hành, vua Hùng vương thứ 17 đã gặp một người con gái tài sắc tại làng Định Công và lấy nàng về làm vợ, chính là vị Hoàng hậu thứ 5. Trải qua thời gian, cho đến nay ngôi đền vẫn tồn tại và trở thành một trong những ngôi đền thờ Mẫu linh thiêng. Mùa xuân đến, người người lại trở về đền làm lễ cầu may, cầu phúc, hưởng lộc của Thánh mẫu


Một số hình ảnh lên đồng tại Bản đền Mẫu Đầm Sen
Đồng thầy : Phùng Minh Trí  khai đàn mở phủ cho con nhang tại bản đền Mẫu Đầm Sen ( Hà nội 04.02 âm lịch )
- Giá Quan lớn Đệ Ngũ  Tuần : Chứng đàn tiễn mã Tứ phủ
- Giá Chầu Lục Cung :  Chứng đàn sang khăn

photo :  mantico











Một số hình ảnh Đồng tân linh mới  hầu đồng  sau lễ Mở  phủ
Thanh đồng : Dương Minh Tuấn 
Giá đồng : Chầu bé Bắc Lệ / Cô bơ thoải cung / Cô Chín ( Đền Sòng
Hình ảnh : mantico
---------------------------------------------------------------------------------------













07 March 2011

BLOG dự hầu đồng Tuyên Quang ( Đền Dùm )








Đền Thượng (xã Tràng Đà, thị xã Tuyên Quang), thờ Ngọc Lân Công chúa  mà dân gian vẫn thường gọi với lòng thành kính là Mẫu Thoải. Đền tọa lạc trên thế “Gối sơn nghênh thuỷ”, trước đền là sông Lô hùng vĩ, sau đền là núi Dùm.

Đền Thượng được xây dựng vào thời hậu Lê. Trải qua thời gian mưa nắng, ngôi đền bị hư hỏng, được trùng tu lại nhiều lần. Hiện nay phần kiến trúc cơ bản, những bức trạm trổ, đường nét hoa văn, hiện vật... còn giữ lại được tại đền đều thuộc thời Nguyễn.

Đền Thượng còn lưu giữ được 5 đạo sắc của các triều vua phong tặng cho thần. Hiện vật cổ nhất còn giữ được là sắc phong của vua Cảnh Hưng năm thứ 4 (1743). Nội dung các sắc phong của vua ban vừa mang dấu ấn lịch sử vừa mang tính chất văn chương, ca ngợi phẩm chất cao quý và sức mạnh linh thiêng của các nương thần phù trợ cho nước, cho dân. Văn bia và sử sách còn ghi rõ: Trong cuộc đánh dẹp khởi nghĩa của Nùng Văn Vân, Tổng đốc Lê Văn Đức đã làm lễ cầu đảo ở đền Thượng và đền Hạ. Dẹp loạn xong, nhà vua ban cấp sắc phong cho hai ngôi đền và dùng những mỹ từ cao quý nhất phong tặng cho các nương thần.

Đền Thượng nổi tiếng linh thiêng, quanh năm không chỉ người dân vùng Tuyên Quang đến lễ bái, cầu xin phúc lộc, mà khách từ bốn phương cũng về đây đông như chảy hội, nhất là vào những kỳ lễ hội chính 12-2 và 12-7 âm lịch hằng năm. Bà Nguyễn Thị Hoà, tổ trưởng tổ quản lý đền Thượng cho biết: Đền Thượng là một trong ba ngôi đền nổi tiếng linh thiêng của thị xã Tuyên Quang. Hàng năm, đền thu hút rất đông khách đến tham quan, vãn cảnh. Năm 2007, đền Thượng đã đón 41.812 lượt khách. Các hiện vật do khách thập phương đến công đức từ đầu năm đến nay trị giá 74 triệu đồng, bao gồm: ngựa gỗ, hạc gỗ, giá vàng...

Tục rước Mẫu của người dân thị xã Tuyên Quang đã có từ lâu đời. Vàongày 12-2 và 12-7 âm lịch hằng năm, lễ rước bắt đầu từ đền Ỷ La ra đền Hạ rồi từ đền Thượng về đền Hạ. Đây là lễ hội lớn nhất trong năm của người dân thị xã Tuyên Quang. Đến thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp, do loạn lạc, tục rước Mẫu đã bị lãng quên. 2 năm gần đây, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân, đồng thời khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội địa phương, UBND thị xã Tuyên Quang đã khôi phục tổ chức lễ hội đền Hạ, rước Mẫu từ đền Thượng về đền Hạ vào ngày 12-2 âm lịch. Trong những ngày diễn ra lễ hội, người dân địa phương tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, trò chơi dân gian như: Chọi gà, kéo co, cờ tướng, hát chầu văn...

Nguồn bài viết : Báo Tuyên Quang
Photo : mantico blog

06 March 2011

Cafe đầu năm cùng blog









Tham gia : Vân Nhị ( Hà Nội ) / Đức Anh ( cô chín ) / Lâm ( Gia Lâm ) / admin ( mantico )

Sinh nhật Huyền ( thành viên blog )


Thêm một tuổi mới Chúc em và Gia Đình luôn gặp nhiều may mắn - hạnh phúc - thành công trong công việc 






    



Tham gia :  Hoàng Văn Thái ( Tuyên Quang  ) / Trương Nguyên Phúc( Cô chín ) / Huyền ( Hà Nội ) /  Admin ( mantico )

01 March 2011


“KHÔNG THỂ CẤM NGAY BẰNG MỘT SẮC LỆNH”
Nghị định 75/2010 NĐ-CP “quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa”


Ngày 1/9/2010, Nghị định 75/2010/NĐ-CP ngày 12/07/2010 “quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa” chính thức có hiệu lực thi hành. Việc người dân đốt đồ vàng mã tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử-văn hóa, và nơi công cộng khác sẽ bị phạt tiền, thậm chí việc rải vàng mã trong đám tang cũng sẽ bị xử phạt được quy định tại nghị định này đang tạo ra những ý kiến trái chiều. 

Để rộng đường dư luận, Đời sống  Pháp luật đã có cuộc trao đổi với GS Ngô Đức Thịnh- Ủy viên Hội đồng di sản văn hóa quốc gia, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, bảo tồn,Văn hóa Tín ngưỡng Việt Nam- về vấn đề này.

ĐSPL: Xin GS cho biết tục lệ đốt vàng mã của người Việt có từ bao giờ?

G.S Ngô Đức Thịnh : Cho đến nay, vẫn chưa có một tài liệu nào cho thấy thời điểm xuất hiện việc đốt vàng mã ở nước ta, nhưng chắc chắn điều này đã tồn tại từ hàng trăm năm do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên, quan niệm người chết không phải là hết, chia của cho người chết ở ta cũng đã có từ rất lâu đời rồi. Đến nay, người Tây nguyên không chịu một chút nào văn hóa Trung Hoa, nhưng vẫn tiến hành tục chia của cho người chết trong lễ bỏ mả, song họ không có tục làm đồ mã mà dùng chiêng ché, đồ dùng thật hàng ngày chôn theo người chết (tục chôn đồ tùy táng). Nói như thế để thấy, tục đốt đồ vàng mã là một hành động mang tính nghi lễ, nó có cơ sở nhận thức chứ không phải một hành động vu vơ

Tuy nhiên, xã hội hiện nay đang tồn tại 2 quan niệm, đồ mã và đồ vàng mã. Đồ mã có bao gồm vàng mã hay không và vàng mã có bị cấm không?.Để tránh gây tranh cãi và thuận cho việc thực thi luật pháp, trước tiên chúng ta cần phân định rõ khái niệm về đồ mã vì theo như tôi biết thì có nhiều người đang hiểu là cấm đốt đồ mã chứ không cấm đốt vàng mã. Trên thực tế, đồ mã là khái niệm chỉ chung những đồ làm bằng giấy và có thể đốt đi được. Nó liên quan đến một quan niệm, muốn người âm nhận được thì đồ lễ phải được đốt (hóa) sau khi dâng cúng. Vì thế đồ mã không thể làm bằng gỗ hay vật liệu khác. Đồ mã chính là những thứ vật dụng như nhà, xe, voi ngựa, đồ đạc, hình nhân…bằng giấy, còn vàng mã là những thỏi vàng, bạc hay tiền địa phủ (sau này người ta in giống như tiền thật)

Ở đây còn một vấn đề khác cần phải xác định rõ là quan niệm về lễ hội? Một nhóm người tập trung lại và cùng nhau thực hiện một nghi lễ nào đó thì có được coi là lễ hội không? Tôi cho rằng, ngay một gia đình, một dòng tộc tập họp nhau lại để tiến hành một nghi lễ nào đó với tổ tiên cũng đã là lễ hội rồi, vậy thì cấm đốt vàng mã, đồ mã ở lễ hội làng, vùng, cả nước, còn loại thờ cúng mang tính gia đình thì sao ?

ĐS&PL: Được biết trong giáo lý đạo Phật không chủ trương đốt vàng mã, song việc đốt vàng mã đang tồn tại như một “nghi thức” không thể thiếu của người dân trong mỗi dịp lễ trọng. Vậy vàng mã có được coi là một sản phẩm của văn hóa tín ngưỡng không, thưa GS?

GS Ngô Đức Thịnh: Trước nhất cần nói rõ, không thể đồng nhất Phật giáo với dân tộc, đồng nhất nghi lễ Phật giáo với nghi lễ toàn dân tộc, mà Phật giáo chỉ là một bộ phận, một sắc thái văn hóa trong dân tộc mà thôi. Do vậy không thể áp đặt nghi lễ của Phật giáo cho toàn dân tộc !

Như tôi đã nói, hành động đốt vàng mã là một trong các nghi lễ, mà nghi lễ nào cũng có cơ sở nhận thức và được thực hiện trên một nền tảng quan niệm vững chắc, trở thành một tập quán.xã hội. Tín ngưỡng chính là việc người ta tin vào một lực lượng siêu nhiên, như hiện tượng linh hồn chẳng hạn. Người ta tìm mọi cách để liên hệ với cái siêu nhiên đó. Vì thế con người đốt hương và tin rằng, những lời cầu khấn sẽ theo khói hương bay lên tới linh hồn tổ tiên, thần, Phật. Đồ vàng mã cũng vậy, dân gian quan niệm, chết không phải đã hết mà linh hồn tồn tại ở một thế giới siêu nhiên nào đó nên họ tư duy “trần sao âm vậy”, có nghĩa là người sống cần có gì, người âm cũng cần có cái đó. Bằng rất nhiều cách người sống cố gắng liên hệ với thế giới linh hồn. Họ đốt tiền, vàng mã là để tin rằng người chết cũng có được cuộc sống đủ đầy. Vì thế, đồ vàng mã khó có thể tách rời khỏi văn hóa tín ngưỡng của người Việt.

Tuy nhiên, việc đốt vàng mã cũng nên quy định theo mức độ, đúng với bản chất của nó. Ở nhiều nơi, việc đốt vàng mã đang bị người ta thực hiện một cách thái quá vì cho rằng, dâng cúng càng nhiều thì càng được thánh thần hay người âm phù hộ. Thực chất, đây chỉ là sự “phô trương” với người trần, hơn thế nữa là để thỏa mãn thói thường “con gà tức nhau tiếng gáy”, dẫn đến sự lãng phí tiền của một cách không cần thiết, điều này đáng phạt.

ĐS&PL: Dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân gian, theo GS việc xử phạt hành vi đốt vàng mã sẽ ảnh hưởng như thế nào đến đời sống văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng?

GS Ngô Đức Thịnh: Bạn nghĩ thế nào nếu cấm người dân đi bán buôn trong nền kinh tế thị trường? cấm người theo đạo kito ăn bánh thánh và giáo dân thiên chúa đi lễ nhà thờ, cấm lễ cầu siêu trong Phật giáo? Nói như vậy để thấy, trong tín ngưỡng có một số nghi lễ cần thiết và việc ngăn cấm thực hiện là một vấn đề khá nhạy cảm. Chẳng hạn, cho thờ cúng tổ tiên nhưng lại không cho thực hiện việc dâng cúng quần áo, tiền vàng vì là đồ vàng mã? Đạo mẫu được coi là một tín ngưỡng và được luật pháp bảo vệ nhưng lại bị cấm lên đồng trong khi lên đồng là một nghi lễ quan trọng nhất của Đạo Mẫu?

Mâu thuẫn là ở chỗ, quy định cấm hoạt động lên đồng nhưng vẫn cho thực hiện nghi lễ cầu siêu, trong khi cầu siêu chính là một nghi thức theo quan niệm có tồn tại linh hồn. Việc thực hiện nghi lễ cầu siêu là để cầu cho các linh hồn đó được siêu thoát, một hành vi mang tính nhân văn, và lên đồng cũng vậy, người ta quan niệm các vị thần như Đức Thánh Trần, Mẫu Liễu Hạnh… cũng có linh hồn và các Ngài nhập vào các thân xác ông đồng, bà đồng thì lại bị cấm?!

Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện bằng nhiều nghi lễ và tự do tín ngưỡng là một trong những quyền cơ bản của con người, hơn nữa nghi lễ có nguồn gốc từ nhận thức nên theo tôi, muốn thay đổi hành động đó thì phải thay đổi từ chính nhận thức của người hành lễ.

ĐS&PL: Dường như quy định và tính khả thi không có dấu hiệu tỷ lệ thuận, thưa GS?

GS Ngô Đức Thịnh: Không thể bằng một sắc lệnh mà có thể cấm ngay được những nghi lễ tín ngưỡng, vấn đề là nhận thức của con người. Theo truyền thống việc rải vàng mã trong đám tang người chết có ý nghĩa đánh dấu đường cho linh hồn người chết trở về. Nếu đốt vàng mã trong lễ hội, chính quyền tiến hành xử phạt đã khó thì việc xử phạt hành vi rải vàng mã trong đám tang lại hết sức nhạy cảm. Dùng vàng và đồ mã khối lượng nhiều, rải vô tội vạ là hành vi đáng lên án, nhưng nếu lấy lí do làm bẩn môi trường thì không thuyết phục cho lắm. Thành phố đang ngập ngụa rác thải từ nhiều nguyên nhân khác chứ không phải là từ việc rải vàng trong các đám ma.

Để luật pháp đi vào cuộc sống là việc làm cần thiết nhưng cần có thời gian tuyên truyền để người dân nhận thức được vấn đề và có hành vi phù hợp truyền thống chứ không thể tiến hành ngay từ ngày mai được. Chúng ta nên giao trách nhiệm này cho chính những địa phương, đơn vị, cá nhân quản lý di tích, văn hóa và cơ quan tổ chức lễ hội để định hướng, tuyên truyền cho người dân về các nghi thức hành lễ phù hợp với dân gian. Nếu cứ nhất nhất “ép” ngay vào lề lối, rất có thể sẽ lại nảy sinh tiêu cực, thậm chí người dân sẽ “nhờn” luật pháp.

ĐS&PL: Xin cảm ơn GS!

Hải Lý -thực hiện
*Xin cảm ơn GS Ngô Đức Thịnh đã gửi cho Ng. Xuân Diện-Blog bài PV này và cho phép công bố tại đây
Nguồn bài viết : BLOG Nguyễn Xuân Diện 

28 February 2011

Đền Mẫu Ỷ La ( Tuyên Quang )

Theo sách Đại Nam nhất thống chí, Thần tích Đền Ỷ La và truyền thuyết dân gian đều kể lại :

Xưa có hai nàng công chúa con vua Hùng là Phương Dung và Ngọc Lân, một hôm theo xa giá đến bên bờ sông Lô (thuộc thôn Hiệp Thuận) đỗ thuyền. Nửa đêm trời mưa to, gió lớn, hai nàng đều hoá, nhân dân trong vùng lấy làm linh dị bèn lập đền thờ… Đến triều vua Cảnh Hưng, ngày 29 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1738) đền được xây dựng qui mô hơn. Tiếp đến, ngày 28 tháng 10 năm Đinh Hợi (1767), nhân dân lại xây thêm một ngôi đền nữa về bờ tả sông Lô, phía thượng nguồn, thuộc chân núi Dùm đặt tên là Đền Thượng. Đền Hiệp Thuận ở hạ lưu được gọi là Đền Hạ, thờ công chúa Phương Dung (người chị), Đền Thượng thờ công chúa Ngọc Lân (người em). Truyền thuyết cho hay, hai ngôi đền có nhiều linh ứng, nên từ xa xưa hai nàng được tôn làm Thánh Mẫu.

Triều vua nhà Nguyễn, nghe tin có một đảng loạn sắp tràn vào tỉnh lỵ, dân chúng đã vác tượng Mẫu chạy vào thôn Gốc Đa xã Ỷ La. Họ vừa kịp giấu pho tượng vào rừng cây thì quân giặc tới, nhưng chúng không phát hiện ra. Sáng hôm sau, thay vào chỗ bức tượng là một đống mối đùn lớn, dân làng cho là điềm báo ứng. Giặc tan, họ cùng nhau xây một ngôi đền mới thờ Thánh Mẫu ngay trên mảnh đất đó. Trong văn bia trùng tu Đền Hiệp Thuận năm Khải Định thứ năm (1920) cũng ghi lại nguồn gốc sự kiện này, ngoài ra cũng có đoạn viết: “Than ôi! Thần Mẫu linh thiêng cùng với tạo hóa, non sông nơi đây... Duy Thần Mẫu có công to với quốc dân xã tắc, linh thiêng chở che trăm họ, khiến dân được thuần phác, khiến ai ai khi đến đứng trước đền thờ phải cung kính, sợ sệt, khuyến khích người thiện, trừng phạt kẻ ác, chính là nhờ Thần ban cho vậy…”.

Sự hình thành Đền Mẫu Ỷ LaĐền Thượng đều bắt nguồn từ Đền Hiệp Thuận, cùng thờ Thánh Mẫu. Trong quan niệm dân gian, Đền Mẫu Ỷ La là nơi “lánh nạn” cho Thần (tỵ Thần), là nơi có địa thế linh thiêng chở che Thánh Mẫu, là nơi có khả năng bảo toàn cái Thiện, cho nên lễ hội Đền Thượng và Đền Hạ không tách rời Đền Mẫu Ỷ La. Hai vị Thánh Mẫu đều được thờ phụng ở 3 ngôi đền. Nhưng Đền Mẫu Ỷ La được chọn là nơi khởi kiệu, Đền Hạ là nơi hợp tế đều có những nguyên do lịch sử và tín ngưỡng dân gian.

Hàng năm, xuân thu nhị kỳ vào trung tuần tháng 2 và tháng 7 (âm lịch), lễ rước Kiệu Mẫu bắt đầu từ Đền Mẫu Ỷ La ra Đền Hạ, rồi tiếp đến lễ rước Kiệu Mẫu từ Đền Thượng qua sông về Đền Hạ để cùng hợp tế. Nghi thức uy nghi, có đầy đủ già trẻ gái trai và khách thập phương tham dự. Người rước Kiệu Mẫu phải là những nam thanh, nữ tú xứ Tuyên. Kèm theo lễ rước là múa lân, kết hợp dàn nhạc với lời ca. Những năm Đền được vua ban cấp sắc phong, nhân dân tổ chức lễ đón nhận long trọng, đông vui. Rước Mẫu là một sinh hoạt lễ hội lớn nhất từ xa xưa kéo dài đến thời gian đầu kháng chiến chống thực dân Pháp mới chấm dứt.

60 năm sau, năm 2006 lễ rước Mẫu lại trở về với xứ Tuyên trong niềm hân hoan của nhân dân. Đền Mẫu Ỷ La, Đền Hạ, Đền Thượng vừa là nơi bái vọng, vừa là nơi nhân dân góp sức làm từ thiện. Lễ hội Đền Hạ, Đền Thượng, Đền Mẫu Ỷ La tạo nên một không gian văn hóa độc đáo của xứ sở lâm tuyền. Song nghi thức lễ hội Đền Mẫu Ỷ La cũng có những nét riêng, ngoài việc thờ cúng Thánh Mẫu còn thờ cúng Thổ công, thờ Thành Hoàng Làng, tế các danh nhân và nạn nhân lịch sử ở địa phương, lễ cầu tự, cầu mưa... Chẳng hạn như lễ Giỗ Trận vào ngày 16 tháng Chạp hàng năm của nhân dân xã Ỷ La tưởng nhớ 86 người thiệt mạng trong một vụ thảm sát của giặc Cờ Đen ở thôn Đồng Khán cuối thế kỷ XIX. Ngoài lễ thờ Thánh Mẫu, người xưa cũng dành phần hương hoả cho hai ông họ Nguyễn có công sáng lập đền, đó là Nguyễn Thứ và Nguyễn Huy Côn.

Đền Mẫu Ỷ La còn để lại nhiều di sản vô giá. Trong đền hiện còn giữ được 2 quả chuông cổ và 16 tượng cũ, các đồ tế khí bằng đồng, sành sứ, các hoành phi câu đối, đề từ, sắc phong và thần phả. Nhưng đáng chú ý nhất là những di sản văn hóa phi vật thể. Đền còn lưu giữ được 6 bản sắc phong của 4 ông vua Triều Nguyễn như Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định phong cho Đền Mẫu Ỷ La. Nội dung các sắc phong đều đề cao công đức của Thần đã giúp nước, trợ dân sống an lành hạnh phúc và ban tặng cho các Thần những Mỹ tự cao quí. Chẳng hạnsắcphong của vua Đồng Khánh năm 1887 là “Dực Bảo Trung Hưng”; sắc phong của vua Thành Thái năm 1890 là “Tề Thục Trung Đẳng Thần”; sắc phong vua Duy Tân năm 1909 là Hiệp Thuận Trinh Ý Minh Khiết Tĩnh Quyên Nhàn Uyển Trai Thục Dực Bảo Trung Hưng Phương Anh Phu nhân trung đẳng Thần; sắc phong của vua Khải Định năm 1923 là: “Linh Thuý Trung Đẳng Thần”. Các ông vua đều đồng lòng với dân, thờ phụng các Thần và mong các Thần phù trợ cho nước thái, dân an.

Bài viết PGS.TS. Trần Mạnh Tiến
Nguồn ảnh :  mantico 's BLOG 
---------------------------------------------------------------------------
Một số hình ảnh đền Mẫu Ỷ La











27 February 2011

XEM LÊN ĐỒNG TẠI L’ESPACE ( bài viết : Đoàn Đức Thành )

XEM LÊN ĐỒNG TẠI L’ESPACE 24 TRÀNG TIỀN QUÁ ĐÔNG

doanducthanh-KIẾN TRÚC VIỆT: Chiều nay (23-2-2011), mình đã có mặt tại L’Espace, 24 Tràng Tiền, Hà Nội trước 10 phút so với giờ khai mạc ghi trong giấy mời (17h). Đề phòng bất trắc, mình mang theo cả thẻ Nhà báo, đến nơi thấy ở dưới nhà đông quá, người đứng người đi, người ngồi uống cà phê, số đông ngồi bệt dưới đất, số thì đứng kín cầu thang lên tầng 2. Mình leo lên cầu thang tầng 2, ngỡ ngàng nhìn tấm biển ghi ở dưới chân cầu thang "hội trường đã kín". Hỏi ra mới biết mọi người đến đây để xem lên đồng. Mình cố lên đến cửa hội trường thì bắt gặp rất nhiều báo hình báo viết và rất đông người cầm giấy mời trên tay. Nói thế nào thì nói, anh chàng bảo vệ kiên quyết không cho ai ra và không cho ai vào: "nội bất xuất ngoại bất nhập". Đứng cầu cạnh mãi mỏi chân rồi cũng tự rút lui. Tất cả đều quay xuống xem trên màn hình, mà đông quá muốn nghe hay xem được cũng khó.

* Ngồi ở đây chẳng biết xem vào đâu nhưng vẫn ngồi.

* Chàng bảo vệ mặt lạnh như tiền (bìa bên phải).
* Ngồi chờ xem qua màn hình.
* Xem qua màn hình cũng không dễ.
* Nhiều người đi đứng lang thang một lúc rồi về.
* Giấy mời có cũng như không.



Như vậy là người Hà Nội cũng rất quan tâm đến đạo Mẫu và lên đồng, chứ đâu phải thờ ơ? 
Tôi đã tìm đọc nhiều tài liệu về đạo Mẫu và cũng xem lên đồng nhiều lần, chủ yếu là dân gian ở các đền chùa, hôm nay muốn xem một cách "chính thống" các giá hầu đồng do các nhà nghiên cứu tổ chức xem ra sao, có gì khác không để so sánh đánh giá, mê tín hay không mê tín, nên cấm hay không cấm, dư luận đang trái chiều hiện nay, nhưng không vào xem được, ý tưởng của mình không thành. Mình cũng không hiểu sao lại tổ chức một chương trình nhiều người quan tâm đến thế vào một nơi chật như  thế ? 



Hồi mình 5-6 tuổi đã mê xem bố lên đồng rồi, ngày ấy lên đồng chỉ là một sinh hoạt văn hóa truyền thống, lộc thánh chỉ là quả táo quả ổi, cái kẹo, nhiều lắm là phong oản bột, chẳng thấy tung tiền. Bây giờ mình theo dõi thấy khác xưa nhiều lắm, mỗi giá đồng hàng chục triệu, họ quan niệm càng bỏ ra nhiều tiền càng nhiều lộc nên nhiều người đầu tư vào lên đồng quá lớn, đến khuynh gia bại sản. Cũng vì thế nên những thanh đồng đã để lại nhiều điều tiếng chê bai của người đời. 
Hôm nay mình cũng gặp vợ chồng Nguyễn Huy Thắng, cháu Nhất chủ blog Matico, gặp các cháu phóng viên ở mấy báo, toàn những người không được vào hội trường.
Đành chụp một số hình ảnh không khí bên ngoài. Đồng thời cũng ghi lại chương trình hoạt động tối nay:

“Hơn bất kỳ một quyển sách khô cứng, một bức tranh hay một bức tượng nào, lên đồng là một bảo tàng sống động. Người Việt đã triển lãm nền văn hóa Việt Nam cho người Việt và người nước ngoài. Những người tham gia hầu đồng chính là những người quản lý nhà bảo tàng, những người bảo vệ cho văn hóa Việt Nam. Việc làm của họ đảm bảo cho các thế hệ tương lai vẫn sẽ tiếp tục có cơ hội được chiêm ngưỡng những khía cạnh khác nhau của văn hóa Việt Nam, mà chúng đang dần bị nhạt nhòa đi trong đời sống xã hội hàng ngày, chỉ còn hiện diện trong điện thần của đạo Mẫu”.(TS. Frank Proschan).

Nội dung chương trình:

Người thuyết trình: GS. TS Ngô Đức Thịnh - Dẫn chương trình: TS. Nguyễn Xuân Diện
Sau hội thảo có minh họa diễn xướng hầu đồng.

Phần 1:Thuyết trình
GS. Ngô Đức Thịnh (GĐ Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam) sẽ nói về nguồn gốc, lịch sử và nền tảng văn hóa của Đạo Mẫu. Những đặc sắc và giá trị đặc biệt của Đạo Mẫu, cũng như những giá trị văn hóa đã lắng đọng và ngưng kết trong diễn xướng hầu đồng của Đạo Mẫu Việt Nam. Phần này, do Nguyễn Xuân Diện làm MC.

Phần 2: Minh họa diễn xướng hầu đồng
Hầu đồng. Gồm các giá đồng: 1- Ba giá Mẫu, 2- Trần Triều, 3- Quan Đệ Tam, 4- Quan lớn Tuần Tranh, 5- Chầu Đệ Nhị, 6- Chầu Bát, 7- Chầu Bé, 8- Chầu Thác Bờ, 9- Ông Hoàng Bảy, 10- Ông Hoàng Mười, 11- Cô Cam Đường, 12- Cô Bơ Thoải, 13- Cô Bé.


------------------------------------------------------------------------------
Bài viết : Nguồn từ BLOG thành viên Đoàn Đức Thành 

24 February 2011

Lịch trình cho buổi đi lễ đầu xuân


     Đầu xuân năm mới  2011 Blog kính chúc toàn thể anh chị em một năm mới AN KHANG THỊNH VƯỢNG .  
     Với mục đích để mọi người gặp gỡ và giao lưu với nhau v& cũng là du xuân đi lễ câu an đầu năm. Blog tổ chức chương trình du xuân đi lễ cầu an đầu năm . 
                                 Địa điểm: Một số đền chùa khu vục Gia Lâm - doc Sông Hồng
                                 Thời gian: 8h sáng Chủ Nhật ngày 27/02/2011
                                 Phương tiện đi lại: tự túc 
                                 Kinh phí: 100N ( bao gồm chi phí sắm sửa đồ lễ + chi phí an trưa )
         Trân trọng kính mời toàn thể anh chị em!

------------------------------------------------------------------------------
Ghi chú: Thông báo này thay cho giấy mời
Các bạn tham gia vui lòng comment ở cuối bài viết ( tên / số điện thoại ) hoặc  gọi điện thoại / nhắn tin về cho blog theo số : 0926919990 ) 


Lịch trình du xuân ngay 27/02/2011 :  
8h tập trung tại chân cầu Long Biên - Phía bên Gia Lâm
- Đền Ghềnh 
- Chùa Bồ Đề
- Đền Chầu Đệ Tứ
- Đền Lâm Du 
- ( Nghỉ ăn trưa : Kế hoạch là dừng chân tại Đền lâm du )
- Đền Mẫu Thoải 
- Đền Rừng 
- Đền Núi 
- Chùa Tiêu Giao 

-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Liên lạc với blog : Mantico 
Mail : giothang4@yahoo.com
Phone : 0926919990

Đền Cảnh Xanh ( Tuyên Quang )

Đền ngự trong khuôn viên khoảng 600 m2, lưng tựa vào núi, xa xa sơn thuỷ uốn khúc, long hổ ôm quanh, hồ lớn trước mặt. Kiến trúc độc đáo của ngôi đền được tạo nên bởi lớp lớp cây xanh, cành lá xum xuê, rễ buông như xà long uốn khúc. Kỳ lạ là những chiếc lá của hàng cây bốn mùa đều non tơ, xanh thẫm. Người dân trong vùng kể lại: "Ban ngày đố ai nhìn thấy chiếc lá vàng rơi rụng dưới thềm sân, hoạ chăng chỉ có về đêm...".

Theo truyền thuyết, thời Hùng Vương thứ 18, Tản Viên Sơn Thánh (con rể Hùng Vương) có một người con gái thông minh, xinh đẹp, văn võ toàn tài, huý là La Bình hay còn gọi là Cô Bé. Cô đi đến đâu, mưa tạnh, rét ngừng, muông thú ùa đến giao duyên làm bạn. Vua đã phong hiệu cho nàng là "Thượng ngàn công chúa cai quản các cõi rừng của Nam Giao". Từ đó, Cô Bé trở thành bà chúa của rừng xanh. Một hôm, Thượng Ngàn công chúa hạ giá se mây thăm thú đại ngàn. Từ trên trời cao, nàng nhìn xuống Lô giang, dòng sông khúc quanh khúc lượn, ghềnh đá chênh vênh, trăng gác đầu non hắt hiu ánh vàng trải xuống dòng sông mềm như dải lụa. Thấy phong cảnh hữu tình, nàng hạ giá nghỉ lại nơi đây. Đêm ấy, người dân trong làng đều mộng thấy có một thần nữ dung nhan ngời ngợi, đầu đội mũ xanh, thắt lưng xanh, khoác áo choàng xanh lộng lẫy giáng ngự bên hồ, muông thú khắp nơi kéo về mở hội xao động cả vùng sơn cước. Sáng ra, ai cũng kể lại giấc mộng đêm qua, rồi cùng nhau đến nơi xem xét. Lạ thay, nơi đây chỉ còn lại một cây xanh, thân rễ đan xen, cành lá rủ xuống giống như động tiên thiên hình vạn trạng. Thấy sự kỳ lạ, mọi người mang hương hoa đến vái lạy, rồi lập một am nhỏ tại gốc cây để tuần rằm nhang khói. Thời gian trôi đi, cây xanh đã phủ kín am thiêng, thấy không tiện cho việc thờ phụng lâu dài, người dân trong vùng đã dâng lễ xin Bà chúa Thượng ngàn cho lập đền thờ trong khu vực cây xanh như hiện nay...

Đền Cảnh Xanh được dựng theo hình chữ Đinh, gồm toà tiền đường và hậu cung, mái được đắp nổi rồng chầu mặt nguyệt với bốn đầu đao cong vút cánh điệu. Trong đền hiện còn lưu giữ một số hiện vật có giá trị, như quả chuông đồng cổ, 3 bức đại tự bằng chữ Hán và 5 đạo sắc thời Nguyễn. Lễ chính đền vào ngày 18 tháng Giêng âm lịch; ngày mùng 3 tháng Tư lễ vào hè; ngày 3 tháng Bảy lễ ra hè; ngày 20 tháng Tám giỗ Đức Thánh Trần; ngày 10 tháng Chạp lễ tất niên.

Một số hình ảnh đền cảnh xanh BLOG ghi lại
----------------------------------------------------------------------




Nguồn : Bản đền Cô bé Minh Lương 
Photo : mantico's BLOG 
BLOG đi dự hầu đồng : Trần Thái Hoàng ( Xuân 2011 )
Mantico trân thành cảm ơn anh  Trần Thái Hoàng  đã giúp mantico có chuyến đi xa đến Đền Cô bé Minh Lương và 12 Đền Khác ở Tuyên Quang


Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa[2]. na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất bà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. Án Tất Điện Đô Mạn Đa Ra. Bạt Đà Dạ, Ta Bà Ha.

Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng . Hàng Ông Hoàng gồm:

01- Ông Hoàng Cả ( Thượng Thiên )
02- Ông Hoàng Đôi Thượng Ngàn ( Người Nùng )
05- Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc
06- Ông Hoàng Tư
07- Ông Hoàng Năm
08- Ông Hoàng Bảy ( Bảo Hà )
09- Ông Hoàng Bát

Tứ phủ Thánh Cô

Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
3 - Cô Tư Ỷ La
7 - Cô Bảy Kim Giao
10 - Cô Mười mỏ ba
11 - Cô bé Thượng ngàn ( cô bé Đông Cuông /Cô Bé Suối Ngang ( Hữu lũng ) / Cô bé Đèo Kẻng ( Thất Khê ) / Cô Bé Tân An ( Lào cai ) / Cô bé Cây xanh ( Bắc Giang ) / Cô bé Nguyệt hồ ( Bắc Giang ) / Cô bé Minh Lương ( Tuyên Quang ) / Cô bé Cây xanh ( Tuyên Quang ) / cô bé Thác Bờ ( hòa Bình ) / Cô bé Thoải phủ

Bánh Xưa ( Hà Nội )

Bánh Xưa ( Hà Nội )
Cung cấp Bánh khảo - bánh in huế truyền thống / 0965111991